Thứ Tư, 28 tháng 11, 2012

Đường bay mịt mù từ Việt Nam đến giải Nobel

Nhắm giải Nobel văn học cho dân tộc Việt Nam, đó là một mục tiêu cao tột bậc của văn hóa tinh thần, điều đó đòi hỏi chúng ta phải có một thái độ nghiêm túc, một sự chuẩn bị sâu sắc mạch lạc, chứ không phải trò cợt nhả úm ba la, để rồi trở thành cái gì đó cà trớn lâu ngày thành nhờn. Có những kẻ dở điên dở dại nằm lăn lóc bên đường, rút kiếm nhựa chỉ tới chỉ lui theo những đoàn xe xuôi ngược. Chắc hẳn kẻ đó đang tưởng mình là hoàng đế Quang Trung chỉ huy quân ngược Bắc xuôi Nam, bởi vì nếu kẻ đó tưởng mình là cảnh sát giao thông, hắn sẽ cầm cái còi, chứ không phải cây kiếm nhựa. Việc mơ tưởng giải Nobel văn học cho Việt Namcũng vậy, nếu không nghĩ và làm sát thực thì chỉ là giấc mơ hoàng đế của kẻ mang kiếm nhựa mà thôi.


ĐƯỜNG BAY MỊT MÙ TỪ VIỆT NAM ĐẾN GIẢI NOBEL

NGUYỄN HOÀNG ĐỨC

Mới đây, trên truyền hình, có phát cuộc gặp gỡ giữa tiến sĩ Đoàn Hương, dịch giả Thúy Toàn, nhà văn Trang Hạ và nhà đài. Nội dung đại ý:
Thúy Toàn: Các nhà văn ta cũng nhiều người có tài nhưng họ còn phải làm nhiều việc như kiếm ăn nữa chứ, và vì thế khó mà giành hết tâm huyết cho văn chương.
Tiến sĩ Đoàn Hương: Tầm văn học của Việt Nam còn thấp. Muốn viết văn thì phải có tài năng theo kiểu thiên bẩm. Chẳng hạn có người cất tiếng hát chẳng ai thấy gì, nhưng có người vừa mở miệng giọng hát đã gây nôn nao xúc động.
Tôi xin trao đổi cùng hai vị như sau. Về việc các nhà văn xứ ta còn nghèo, còn lo cái ăn. Lo cái ăn là của mọi người, công nhân, nông dân, trí thức, nhà buôn đều phải lo kiếm sống mưu sinh, và việc đó chưa bao giờ ngừng gay gắt ở bất cứ đâu trong lịch sử. Có nhiều người phải bán máu, bán cả bộ phận trong người để kiếm sống hay nuôi con. Vì thế đừng nên nghĩ chỉ có nhà văn mới phải vất vả mưu sinh. Khi một đội bóng đá thua, người ta bàn về chiến thuật chiến lược, chứ không thể đổ lỗi cho việc ăn đói. Cầu thủ bóng bàn, bóng chuyền, hay dụng cụ cũng vậy, nếu nói về bộ môn nào cũng đổ cho thiếu ăn, thì có nghĩa tất cả những chuyên môn và giá trị trên đời đều là chuyên môn của nhà bếp. Và có thể toàn bộ hình ảnh của loài người cũng chỉ là cái dạ dầy đang vo ve quanh cái nồi của nhà bếp mà thôi. Trên thực tế, xét về kinh tế nhiều nhà văn của ta đâu có nghèo, thậm chí họ còn siêu giầu. Chẳng hạn nhiều người được rót đầu tư để viết kịch bản truyền hình, chẳng phân biệt kẻ cao người thấp, họ xúm vào viết, kịch bản mỗi tập phim chỉ dăm trang A4, lĩnh vài chục triệu. Tài năng không tính vì phim truyền hình Việt Nam “phở mậu dịch, kịch ti vi” dở như thế nào ai cũng rõ, nhưng cái chính là ai được rót vốn đầu tư? Hiện thực hơn, có rất nhiều nhà văn sau khi nổi tiếng được trả nhuận bút rất cao, nhưng các báo, rồi nhà xuất bản đề nghị họ viết một chuyện hay một mẩu cũng được, nhưng họ không thể viết vì vốn liếng cạn hết cả rồi. Nhà văn Nam Cao(?) nói : Tri thức viết văn như vốn để đi buôn, anh tri thức thấp, anh buôn bằng cái gì? Hết vốn sống bằng văn học thì chớ nên đổ cho thị trường không có đất buôn bán?!
Tiến sĩ Đoàn Hương cho rằng người viết văn phải có tài thiên phú giống như trời cho ai giọng hát hay. Nói vậy là khập khễnh và kém hiểu biêt vô cùng. Tại sao? Chúng ta không thể so ca sĩ với nhà văn. Ca sĩ có mỗi cái cổ họng. Còn nhà văn phải là kỹ sư của tâm hồn. Hơn nữa, trên thế giới người ta buộc phải xác nhận, có thể có thần đồng âm nhạc, nhưng không thể có thần đồng văn học. Thần đồng thơ Trần Đăng Khoa là một thần đồng cỡ bậc nhất thế giới, nhưng lớn lên trở thành cái gì, có leo vào tốp hạng hai của thơ thế giới không? Trên thế giới người ta có khẩu hiệu cho nghệ sĩ “Bí quyết của thành công là luyện tập”. Làm gì có khẩu hiệu “bạn hãy tin vào tài năng thiên phú của mình”. Nhạc sĩ thiên tài Schumann nói : Thiên bẩm chỉ là mọt chút sắt gỉ, nếu không có sự tinh chế không thể thành dây cót đồng hồ. Nào chúng ta hãy nhìn đi, có cục sắt nào trong tự nhiên có thể thiên phú thành chiếc đồng hồ.

Một chiếc máy bay, khi cất cánh muốn bay xa thì nó phải nâng độ cao, nếu không nó chỉ là con chuồn chuồn bay quanh quẩn. Nhìn tới giải Nobel cũng vậy, cần một độ cao tương xứng. Trong khi đó tầm nhìn của dạ dầy hay thiên phú (tức vốn tự có) chỉ tạo ra nơi ẩn nấp cho những kẻ vừa lười biếng vừa kém tài hy vọng vào giấc mơ sổ số. Vậy tôi xin đưa ra những những bậc thang của hành trình đi đến Nobel:
1.Tri thức: Với người phương Tây, tri thức tức “conscience” cũng có nghĩa là lương tri. Tri thức lớn cũng có nghĩa lương tâm cao. Tri thức của nhà văn Việt còn thấp quá, từ đó sinh ra chữ Chân, chữ Thiện và chữ Mỹ đều thấp cả. Hầu hết tư tưởng của người ta được hình thành từ đỉnh cao tri thức. Có đỉnh núi tư tưởng thì nước trên cao tất yếu đổ xuống và tạo thành cảnh quan. Không có đỉnh tư tưởng nước chỉ là những vũng lầy lép nhép. Một nền văn học lẹt đẹt xuất hiện bởi chính không có đỉnh cao tư tưởng.
2.Tôn giáo: Không có tôn giáo, sẽ không có giá trị siêu hình, sẽ khó có được lý tưởng cho cuộc sống thoát tục, mà chỉ còn là buôn thần bán thánh cùng những tranh giành lầy lội của thế tục. Điều đó lý giải tại sao nhiều nhà văn Việt dù giầu có cũng không thể viết bởi vì ngòi bút của họ vẫn chỉ loay hoay đời sống thế tục bầm dập mưu sinh, mưu tình dục. Việt Nam có gần 99% vô thần. Trên thế giới có nhiều nhà văn vô thần, nhưng họ đạt đến trình độ phản thần, chẳng hạn như triết gia Nietzsche, dù ông thừa nhận đời ông tri ân rất nhiều đạo Tin Lành đã đem đến cho ông nhiều giá trị kiến thức và đạo đức, nhưng ông vẫn từ chối rửa tội lúc chết để được sống và chết như một nhà vô thần thuần khiết. Nhưng vô thần ở Việt Namlà vô thần vô tri như cây cỏ, chẳng hiểu gì để đạt tới thái độ phản thần.
3.Nhân vật: Là cấu trúc tiên quyết bắt buộc cho các tác phẩm văn học. Bởi lẽ không có nhân vật cấu trúc tư tưởng và hành động của nhân vật cũng như thế giới sách vở không thể hình thành. Ngay cả điều này, các nhà thơ, nhà văn Việt còn rất mơ hồ. Họ đua nhau viết vài trăm trường ca không cốt truyện và nhân vật…
4.Sức lực yếu:Các tiểu thuyết của Việt nam đến cuốn hai đều nhạt. Tại sao? Vì đó là thể tạng yếu không chịu rèn luyện hay chú mục, vì thời gian sức lực còn lo kiếm sống.
5.Đam mê yếu: Nietzsche nói “Không phải đam mê làm ra các thiên tài mà là sự kéo dài của đam mê đó”. Các nhà văn Việt có đam mê được chăng hay chớ rất ngắn ngủi. Họ không thể tạo ra độ căng cho suốt cuộc hành trình, mà rẽ ngang rẽ tắt rất nhiều để mưu cầu cái ngoài văn học…

Nhìn cách phát biểu của tiến sĩ Đoàn Hương và dịch giả Thúy Toàn, tôi bỗng liên tưởng đến hai hũ dưa muối muốn bàn đến quốc yến nơi đèn đóm cũng cốc tách pha lê long lanh rực rỡ. Nơi giàn nhạc đồ sộ đang chơi khúc khánh tiết chào mừng thì họ mang kèn lá ra thổi, thều thào chẳng ra hòa âm khúc điệu gì. Nếu giải Nobel cần bàn đến ở tầng mây thứ chín thì họ vẫn còn bò trên mặt đất chưa leo lên mái nhà với vài vấn đề hiển nhiên của trần tục như đói và trời cho… “Y phục xứng kỳ đức” hoặc “Quí vật tầm quí nhân”, những vấn đề cao cả trọng đại nên được trao cho người trọng đại, chớ nên vì cậy vào thói quen của cơ chế bao cấp xin cho, cán bộ cứ nhảy đại vào ngêu ngao những vấn đề lớn như giải Nobel không khéo lại thành hội thảo Nobel cho nhà thơ cậy thiên phú Hoàng Quang Thuận.

Thứ Ba, 27 tháng 11, 2012

Thân phận con người qua hai cuốn sách của DƯƠNG ĐỨC QUẢNG


Theo lẽ thường, với người nghỉ hưu thì sáng uống trà nhâm nhi quá khứ, chiều thể dục cho huyết khí lưu thông và có điều kiện thì xuất bản miệng những câu chuyện của quá khứ vàng son nhưng nhà báo Dương Đức Quảng thì ngược lại. Ông viết trên giấy trắng mực đen và xuất bản thật. 62 bài tập hợp trong hai tập sách "Tiếng tụng kinh trong căn nhà vị tướng" và "Trầm luân nào có chừa ai" (NXB Lao Động năm 2012) hầu hết được viết từ năm 2005 đến nay, nghĩa là viết sau khi ông rời chốn quan trường. Con số đôi khi chỉ cho ta biết sự miệt mài làm việc mà không cho ta biết chất lượng của các bài viết. Và ngạc nhiên là cả 62 bài của ông đều ổn, đặc biệt nhiều bài rất ổn. Phóng viên Thông tấn xã xưa nay vẫn nổi tiếng về làm tin nhanh và chính xác nên việc ông viết vài nghìn từ thuyết phục bạn đọc thì đó cũng là điều ngạc nhiên về ông.
 

Thân phận con người qua hai cuốn sách của Dương Đức Quảng

NGUYỄN NGỌC TIẾN

Là phóng viên chiến trường ban đầu là Quảng Bình đất lửa rồi vào đến khu V trong suốt những năm tháng chống Mỹ khiến thời trai trẻ của ông vất vả, sống chết cận kề nhưng nó là tài sản quý cho một người làm nghề viết lách. Ông cũng hơn đồng nghiệp về chuyện "thâm cung bí sử" vì ông có hơn 10 năm phụ trách báo chí ở Văn phòng Chính phủ. "Chiếc nhẫn cưới của ông bộ trưởng và chiếc răng gẫy của ngài tổng thống", "Việt Nam trong lòng một người phụ nữ Mỹ", "Người hàng binh Maroc mang họ Bác Hồ" (trong cuốn Tiếng tụng kinh trong căn nhà vị tướng)... là thông tin riêng của ông. Những câu chuyện lạ, độc đáo chỉ đảm bảo là không trùng đề tài nhưng viết  hay lại phụ thuộc vào tài năng. Và nhà báo Dương Đức Quảng làm được việc đó.
Hầu hết các bài viết về người thân, bạn bè và những con người mà ông kính trọng như ông tự bạch trong lời giới thiệu ở hai cuốn sách. Viết về người thân, bạn bè rất thuận lợi vì người viết biết "từng chân tơ, kẽ tóc" nhưng cũng không dễ nếu không dựng được cái thần, cái hồn của nhân vật thì bài viết cũng chỉ là bản sơ yếu lý lịch được kéo dài ra mà thôi. Viết về chân dung nhà nhiếp ảnh Vũ Huyến (trong Trầm luân nào có chừa ai) chỉ cần một dòng kể: Vũ Huyến ở tuổi 60 đi xe máy phân khối lớn vào Vinh họp rồi lại chạy ra Hà Nội là ông đã nói được hai điều về bạn mình, một là "Huyến dở hơi" như mọi người hay đùa, hai là đi ôtô tài xế nào dừng xe cho chụp được ảnh.
Đọc Tiếng tụng kinh trong căn nhà vị tướng, được ông lấy là tên cuốn sách mà trọng nể Thiếu tướng Mai Thuận về công lao trận mạc trong kháng chiến chống Mỹ, nhưng cũng thật bùi ngùi khi ông lâm bệnh và vợ ông - quân nhân nghỉ hưu hàng ngày tụng kinh niệm Phật mong Trời Phật ban phúc lành cho gia đình. Nếu không có cái kết này thì bài viết cũng chỉ ngợi ca một vị tướng mà không thấy thân phận con người trong cuộc sống hôm nay. 
Viết chân dung thường là khen, có người khen thừa nhưng Dương Đức Quảng lại khác. Ông không khoe bạn làm được cái gì, giải thưởng nào mà ông chọn tìm những câu chuyện rất đỗi bình thường, thậm chí là cả cái không may trong cuộc đời họ như một điểm nhấn cho bài viết. Trong bài "Giáo sư tiến sỹ toán mê Kiều và truyện tiếu lâm", ông kể chuyện GS. TS Trần Túc nguyên là giảng viên môn toán kinh tế của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đi học ở Liên Xô về xuống ga Hà Nội nghĩ ra trò viết mấy dòng chữ "Có bằng phó tiến sỹ, không nhà cửa nhờ người thương tình giúp cho ở nhờ" lên tấm bìa rồi ôm trước ngực bảo bác xích lô đạp quanh thành phố mà Trần Túc không có bà con thân thích. Nếu không kể chuyện đó thì cũng chỉ là bài báo bình thường, nhưng đưa nó vào để rồi không cần nói thêm các chi tiết khác đã nói lên tất cả: Trần Túc mải học quên lấy vợ, biết tính toán, hài hước, phó tiến sỹ có là cái gì đâu ở xã hội và...
Nhưng bài viết có giá trị nhân văn nhất, chính là bài ông viết về cuộc đời chị gái của mình. Viết về cha, mẹ, anh chị thì nhiều người đã viết kể cả  bằng 7 nốt nhạc. Trần Tiến kể về chị mình bằng âm nhạc, Trọng Đài kể chuyện chị người khác cũng bằng nhạc nhưng nó vẫn là cái tôi của người viết với cảm xúc chủ đạo xót thương người thân. Cũng viết về chị mình nhưng Dương Đức Quảng đã vượt qua ngưỡng chuyện riêng tư nâng tầm bài viết có tính xã hội: sao nhiều phụ nữ Việt Nam vất vả và đắng cay, quanh năm suốt tháng đầu tắt mặt tối vì chồng con, sao đàn ông Việt Nam vẫn gia trưởng và cửa quyền thế; rồi đề đóm, nghiện ngập do đâu...? Với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau.
Đọc "Tiếng tụng kinh trong căn nhà vị tướng" và "Trầm luân nào có chừa ai" không chỉ hiển hiện hình hài con người mà còn thấy xã hội Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, xã hội ngày hôm nay với cảm xúc nghèn nghẹn, bâng khuâng, nuối tiếc và thương cảm thân phận con người cho dù họ là ai. Dương Đức Quảng không làm văn trong các bài viết, ông sử dụng thành thục lợi thế  ngôn ngữ báo chí để viết về sự kiện, nhân vật tạo ra sức hấp dẫn, cuốn hút và từ đó gửi thông điệp tới người đọc, điều mà rất nhiều các bài viết hiện nay còn thiếu. Các bài viết dù ngắn hay dài đều có bố cục rõ ràng, không lan man xa sự kiện và ông biết đặt chi tiết ở đâu trong câu chuyện để nó đắt nhất. Điều này đã làm cho các bài viết của ông không nhang nhác ở đâu đó. Thật khó mà gọi ra một cái tên cho lối viết của ông, thôi thì cứ gọi là lối viết Dương Đức Quảng cho đơn giản.
Với ông chắc chưa thể dừng ở hai tập sách này vì chắc chắn ông còn biết rất nhiều chuyện mà các nhà báo khác không dễ biết được. Hy vọng sẽ được đọc tiếp những cuốn sách mới của ông..

Thứ Hai, 26 tháng 11, 2012

ĐẶNG NHẬT MINH về sau Mùa Ổi


Đạo diễn Đặng Nhật Minh ngồi lẫn vào những khách hàng trong quán cà phê ở phố Lò Đúc một sáng chớm lạnh của mùa thu Hà Nội. Ông lặng lẽ ở một góc quán ngồi đọc vài tờ báo buổi sáng và nhâm nhi cốc cà phê đen đặc quánh. Trong quán cà phê bình dân ấy, nhiều người không nhận ra ông là vị đạo diễn nổi tiếng của rất nhiều bộ phim nổi tiếng mà chắc chắn họ đã từng ít nhất một lần xem trong đời. Đối với đạo diễn Đặng Nhật Minh, đó là một điều may mắn, vì ông được lẫn vào đám đông, quan sát thế giới con người như bao người để lưu giữ những khoảnh khắc của đời thường ấy, để một lúc nào đó nó tự nhiên đi vào những thước phim của ông. Và ông đã kể cho tôi nghe câu chuyện về cuộc đời làm nghề, về những nhân vật có thật đã đi vào từng trang viết, từng thước phim, mang lại cho ông nhiều điều may mắn như một món quà vô giá của số phận…


Người về sau “Mùa ổi”

TRẦN HOÀNG THIÊN KIM

1.
Tôi có một ý nghĩ bị ám ảnh từ rất lâu khi xem xong bộ phim Mùa ổi của đạo diễn Đặng Nhật Minh. Đó là nỗi ám ảnh về nhân vật Hòa, một người đã ngoại ngũ tuần nhưng trí óc vẫn dừng lại ở tuổi 13 trong lần ông bị ngã khi trèo cây hái ổi. Qua những đổi thay của thời gian, lịch sử, ngôi nhà có cây ổi xa xưa ấy được một người chủ mới đến ở. Nhưng đối với ông Hòa, đó vẫn là căn nhà của gia đình ông với một cuộc sống tốt đẹp, ấm êm, hạnh phúc của quãng đời thơ ấu mà ông và các anh chị em đã từng trải qua. Suốt cả thời gian diễn ra bộ phim, tất cả cuộc sống, xã hội, nhân cách của con người đều hiện lên qua lăng kính của ông Hòa, một đứa trẻ 13 tuổi với đầy những nỗi buồn vui, bi thương, bất hạnh đến độ cười ra nước mắt.
Một Hà Nội trong ký ức tuổi thơ và một Hà Nội của ngày nay với đầy rẫy những sự khác biệt đã khiến người xem bị hút hồn bởi những hình ảnh đẹp, lãng mạn nhưng cũng đầy xót xa trước những đổi thay của xã hội, của nhân cách con người. Ở đó, ông Hòa hiện lên là một người không bình thường trong con mắt của nhiều người nhưng không ai khác, chính ông lại là người duy nhất còn lưu giữ được những giá trị tốt đẹp của một người Hà Nội trong quá khứ. Một người tốt không thể tốt hơn, một người hiền lành không thể hiền lành hơn. Ở đó, còn có hình ảnh người em gái thương anh đến thắt lòng khi phải chứng kiến những điều anh đã trải qua cũng như đã bị đối xử, phân biệt trong cuộc đời đầy rẫy những bất trắc. Một cô gái quê dù lên thành phố đi làm mẫu vẽ nhưng lại có một tâm hồn đẹp, nhạy cảm. Một cô gái trẻ là chủ nhân mới của ngôi nhà biết chia sẻ, cảm thông với hoàn cảnh của ông Hòa, trân trọng những ký ức tuổi thơ bên cây ổi sum suê trĩu quả mà cô không được chứng kiến. Dĩ nhiên, để có sự thành công của Mùa ổi chắc chắn phải kể đến sự diễn xuất thành công của NSND Bùi Bài Bình. Ánh mắt ngây thơ, non nớt, ngơ ngác trước cuộc đời, dáng vẻ gầy gò nhưng nụ cười lúc nào cũng thường trực trên môi với sự rụt rè của một đứa trẻ trong cơ thể của một người đàn ông đã giúp Bùi Bài Bình lấy được cảm tình của người xem, khi thú vị, khi háo hức, lại có khi rớt nước mắt.
Nhưng Bùi Bài Bình hoàn toàn không thể làm được điều đó, để nhận về cho mình giải diễn viên xuất sắc nhất, nếu không có một nhân vật có thật đang hiện hữu trong cuộc sống hiện tại, ông Nguyễn Văn Hoán, anh vợ của đạo diễn Đặng Nhật Minh, nhân vật nguyên mẫu đã đi vào truyện ngắn Ngôi nhà xưa và sau này trở thành bộ phim Mùa ổi. Ngay khi mời Bùi Bài Bình vào vai Hòa, chính đạo diễn Đặng Nhật Minh đã dẫn ông Hoán đến nhà Bùi Bài Bình để giúp anh hiểu thêm về diện mạo và tính cách nhân vật của mình.
Không quá khó khăn khi tìm gặp ông Hoán, vì công việc chính của ông mấy chục năm nay là ngồi làm mẫu vẽ tại Trường Mỹ thuật Yết Kiêu. Người ta thường nói rằng, làm mẫu vẽ chỉ có một thời, nhưng ông Hoán là một trường hợp ngoại lệ vì mấy chục năm ông ngồi làm mẫu cho bao nhiêu thế hệ học sinh tại số 42 Yết Kiêu. Hàng ngày, ông đi bộ từ nhà ở phố Hàn Thuyên đến phố Yết Kiêu, bất kể trời nóng, trời lạnh, hay giông bão, trên đôi dép tổ ong cũ, bộ quần áo đã sờn màu, ông vẫn đi tới trường như công việc của một công chức mẫn cán mỗi ngày. Tất thảy những người trong trường đều biết ông, ấn tượng về ông, và luôn dành cho ông những lời đầy thiện cảm vì ông hiền lành, tốt bụng và có một năng lực ngồi làm mẫu… siêu phàm. Ông có thể ngồi liên tục cả buổi sáng, rồi lại cả buổi chiều cho sinh viên vẽ. Mỗi tháng, ông lĩnh lương một lần để trả các khoản tiền chi phí như thuốc lá, cà phê mà khi không có tiền ông vẫn uống chịu ở một quán quen, chính là quán cà phê của chị Ngọc Thu, vợ NSND Bùi Bài Bình.
Chị Thu kể lại, từ ngày NSND Đặng Nhật Minh dẫn ông Hoán đến gặp anh Bùi Bài Bình để chuẩn bị khởi quay bộ phim Mùa ổi thì gia đình chị đã nghiễm nhiên coi ông như người nhà và hình như ông cũng vậy. Ông thường xuyên lui tới uống cà phê. Lúc chưa có lương thì ông nợ, dù nợ vài chục đến vài trăm hay cả triệu bạc thì ông luôn trả không thiếu một xu nào. Mời ông uống không mất tiền, ông cũng không chịu. Có tiền ông hay đi đến các vườn hoa tận Nghi Tàm hoặc ở các làng hoa để mua hoa về cắm. Có khi ông xin hoa của học sinh vẽ tĩnh vật mang về nhà chị. Ông Hoán có tài cắm hoa rất đẹp. Chị Thu phải thừa nhận rằng, dù chị có cố gắng đến đâu thì bình hoa của chị cắm không bao giờ đẹp bằng bình hoa của ông Hoán.
Trong mắt chị Ngọc Thu, anh Bùi Bài Bình, ông Hoán đã không chỉ là một nguyên mẫu của một bộ phim, của một câu chuyện, mà ông là một người thân thiết của gia đình chị với đầy những vui buồn. Bởi vì nếu không có ông Hoán, nếu không có chuyện ông ngã từ cây ổi xuống để mãi mãi trong ký ức của ông vẫn là một đứa trẻ 13 tuổi hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng, dù ngoài 70 tuổi nhưng găp ai ông cũng gọi cô, gọi chú xưng cháu như thể những ký ức của cậu bé trèo ổi 13 tuổi thuở nào vẫn còn hiện hữu thì… chắc chắn, điện ảnh Việt Nam không có một Mùa ổi hay đến thế, chạm tới tận mọi xúc cảm của con người đến thế.
2.
Hỏi đạo diễn Đặng Nhật Minh về nguyên mẫu trong Mùa ổi, ánh mắt ông hiện lên đầy ấm áp. Ông bảo rằng, ông phải cảm ơn người anh vợ, chính sự bình thường đến bất thường của ông, chính lòng tốt được phung phí một cách đầy lãng phí của ông, chính sự thật thà đến mức thái quá của ông Hoán, lại trở thành cái mà thiên hạ vẫn gọi là “điên” trong xã hội. Ông Hoán có thể quên ăn cơm, quên cái bụng đang đói meo của mình, nhưng chưa một bữa nào ông quên cho sáu con mèo ăn. Nếu ai nhìn thấy sáu con mèo đẹp trong tranh vẽ và vườn cây xanh tốt của ông được chăm bẵm từng ngày, ông có một tình yêu thiên nhiên, yêu loài vật, tin vào tín ngưỡng thờ cúng vì không có ngày nào ông không mua hương hoa thắp hương cho bàn thờ cha mẹ, thì không ai coi ông là người bất bình thường cả. Nhưng cuộc đời là vậy, những giá trị bị đảo lộn ở chính việc, những điều nhiễu nhương, toan tính, láu cá… lại được coi là bình thường ở cuộc đời này. Đạo diễn Đặng Nhật Minh tâm sự, chính ông Hoán và nhiều những nhân vật “cùng khổ” khác mà ông gặp, đã hình thành cho ông một quan điểm nhất quán trong sáng tạo nghệ thuật: “Giữa một bức tường cứng rắn và một quả trứng đang đụng vào nó, tôi mãi mãi đứng về phe trứng” (Murakami).
Kỳ thực tôi chưa có dịp nào trò chuyện lâu lâu cùng ông để hiểu hơn về suy nghĩ, về những nguồn mạch cảm hứng để người đạo diễn này viết văn, viết kịch bản phim, làm đạo diễn phim cũng như sự thành công kỳ lạ của một người đi ngang vào nền điện ảnh Việt Nam và để lại ở đó những thước phim hay và có giá trị. Những thước phim đã giúp ông được vinh danh không chỉ đối với nước nhà mà cả đối với nền điện ảnh của thế giới. Trong ý nghĩ của tôi, đạo diễn Đặng Nhật Minh là một người nghiêm cẩn, kỹ tính và thẳng thắn. Tôi luôn có cảm tưởng rằng, ông, với dòng dõi của gia đình làm khoa học, không có sự lãng mạn, bung phá hay bay bổng mà thiên hạ vẫn thường khoác lên vai những người những nghệ sĩ. Nhiều lần, trong các cuộc gặp gỡ, ông bao giờ cũng cẩn trọng, tỉ mẩn, “nói có sách, mách có chứng” khi cần dẫn ra những ví dụ, hay những nguyên lý riêng của mình. Nói về điều này, đạo diễn Đặng Nhật Minh chẳng bao giờ chối bỏ. Ông là người của công việc, không đam mê những thứ phù du vặt vãnh, không trà dư tửu hậu, không la cà quán sá hay tiệc tùng thâu đêm suốt sáng, ông tránh xa những vụ scandal liên quan đến giới nghệ thuật. Và hơn bao giờ hết, dù có trong tay cả chục bộ phim nổi tiếng đi khắp trong Nam ngoài Bắc, ra cả thế giới, nhưng ông luôn luôn tự nhận rằng, ông đứng ngoài cái gọi là showbiz, tránh xa những vụ xì xùm của giới nghệ sĩ để mong kiếm tìm những hư danh trong cái nghề lắm công phu và cũng lắm nhiễu nhương này.
Đạo diễn Đặng Nhật Minh chia sẻ:“Các đạo diễn điện ảnh khi nói về bước đường và sự nghiệp của mình thường hay bắt đầu bằng một câu: Tôi yêu điện ảnh từ nhỏ... Riêng tôi thành thật mà nói, tôi không có một niềm say mê nào từ thuở bé đối với lĩnh vực nghệ thuật này. Tôi đến với điện ảnh bắt đầu bằng một sự tình cờ, rồi tiếp theo là một chuỗi những sự tình cờ. Bộ phim đầu tiên tôi được xem trong đời là bộ phim của Wall Disney: Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn. Đó là vào năm tôi lên bảy tuổi. Mãi đến năm lên mười, tôi mới được xem một bộ phim khác ở rạp Tân Tân cạnh đầu cầu Tràng Tiền ở Huế. Đó là phim Zoro, một phim cao bồi Mỹ có nhân vật chính là một gã cao bồi, đội mũ rộng vành, phi ngựa, đeo mặt nạ đen chỉ để hở đôi mắt. Tôi không có nỗi đam mê nào với môn  nghệ thuật này ngoài sự hiếu kỳ của tuổi trẻ”.
Đạo diễn Đặng Nhật Minh cũng nói thêm rằng, thân phụ của ông, bác sĩ Đặng Văn Ngữ, cả đời nghiên cứu khoa học và đã hy sinh trong chiến trường. Gia tài cụ để lại cho cậu con trai Đặng Nhật Minh là một chiếc kính hiển vi nho nhỏ bằng một gang tay cụ mang về trong một lần đi Nhật, với hoài bão cậu con trai sau này sẽ đi theo con đường khoa học. Và có lẽ, nếu cuộc đời không có những sự bất ngờ thì bây giờ Đặng Nhật Minh có thể đã là một bác sĩ, một nhà nghiên cứu y học nối nghiệp người cha đáng kính của mình. Nhưng đôi khi cuộc đời rất lạ, lạ và kỳ diệu nên không ai cố gắng để lý giải con đường đi của số phận, chỉ biết bám lấy nó để mà bước đi tiếp và làm tốt nhất có thể những bổn phận mà mình được giao phó.
3.
Đã ở tuổi thất thập cổ lai hy, đạo diễn Đặng Nhật Minh lại đang bắt đầu một chặng hành trình mà ông đã bỏ dở cách đây vài chục năm, đó là viết văn. Tập truyện ngắn Ngôi nhà xưa và cuốn hồi ký Phim là đời là khởi đầu cho sự nghiệp viết văn trước mắt của ông. Nhưng cho dù viết văn, viết kịch bản phim hay làm đạo diễn chỉ đạo cả một dàn quân nơi trường quay rộng lớn, thì tôi vẫn có thể hình dung ra ông trong tư thế của một người cặm cụi và yêu công việc của mình đến cháy lòng. Một chiếc bàn quen thuộc, với trang giấy quen thuộc, cái bút quen thuộc, cặp kính quen thuộc để sáng tạo nên những số phận con người, mà hầu hết những số phận ấy đều ít nhiều dính dáng đến số phận của chính ông…

Thứ Tư, 21 tháng 11, 2012

Tạp chí NHÀ VĂN chính thức tuyên bố cáo chung


Hội Nhà văn VN được trở thành Hội chính trị xã hội nghề nghiệp, được hưởng tiền ngân sách – tức là tiền thuế dân đóng. Nhưng trên cấp không nhiều. UBTQ Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam được cấp 600 triệu đồng/ năm (năm 1996 – năm 2000), Hội Nhà Văn VN chắc cũng chừng ấy. Số tiền ấy không bằng quan lớn bỏ ra nuôi cô tình nhân thứ bảy của mình. Trong bối cảnh ấy, Hội Nhà văn VN lại mở ra nhiều cơ quan cấp hai với hy vọng các cơ quan này đóng góp một phần kinh phí cho Trung ương Hội. Bởi vì khi làm đề án đơn vị nào cũng hứa đóng góp kinh phí. Nhưng than ôi, chẳng có đơn vị nào góp đóng được. Tất cả các cơ quan cấp 2 đều bấu víu vào Hội Nhà văn VN. Báo Văn Nghệ mở ra Văn Nghệ Trẻ hy vọng Văn Nghệ Trẻ sẽ nuôi Văn Nghệ già. Không ngờ Văn Nghệ già phải nuôi Văn Nghệ Trẻ. Tạp chí Thơ, Tạp chí Văn Học Nước Ngoài, Hồn Việt, Văn Nghệ Miền Núi đều bám vào Trung ương Hội cả.




Hội Nhà văn Việt Nam nhổ lúa trồng đay

ĐỖ HOÀNG

  Tạp chí Nhà văn tiền thân của nó là Tác phẩm mới xuất bản đầu quí II năm 1969 với 2 tháng 1 kỳ do nhà văn Nguyễn Đình Thi phụ trách. Nếu nhìn xa nữa thì tiền thân của nó là tờ Văn nghệ xuất bản trong kháng chiến chống Pháp.
    Hồi ấy, Tác phẩm mới chưa có trang trách nhiệm như bây giờ nên không biết có còn ai làm nữa. Nhưng tập trung ở đây là các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Tế Hanh....làm rạng rỡ cho Tạp chí.  Ai được đăng ở Tác phẩm mới là ước mơ. Nhiều nhà thơ, nhà văn được đăng ở đây sau này trở thành những người nổi tiếng như:  Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Ý Nhi, Xuân Quỳnh, Thanh Thảo, Lâm Thị Mỹ Dạ…Do biến thiên của lịch sử văn chương nước nhà, đáng ra nó phải là kế thừa tờ Văn nghệ Việt Nam xuất bản từ năm 1948 do Tố Hữu phụ trách mới đúng là tờ tạp chí của một Hội văn chương chuyên ngành.
  Nhưng dù chỉ kể từ năm 1969 nó cũng đã 43 năm thâm niên xứng đáng nhận Huân chương Lao động hạng nhất. Một Hội chính trị nghề nghiệp hay một Bộ chuyên ngành dù không có báo tuần, nhưng tờ tạp chí chuyên môn bắt buộc phải có. Tôi làm trên một giáp bộ (trên 12 Bộ chính thống) nên tôi hiểu rõ điều này. Sau thập kỷ 90 mới có nhiều Bộ mở ra tờ báo tuần, còn trước đó hầu như chỉ tờ tạp chí. Lãnh đạo các bộ đều cho rằng: Tờ tạp chí phải có, báo tuần có cũng được và không cũng được. Đó là một sự thật khoa học. Có bộ như Bộ Thuỷ sản (trước khi nhập vào Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) không có báo tuần. Bộ Lao động – Thương binh Xã hội mãi đến năm 1993 mới có tuần báo Lao đông –Xã hội, bộ Công nghiệp năm 1998 mới có báo Công nghiệp, Tổng cục Du lich - cơ quan ngang bộ năm 1999 cũng mới có Tuần Du lịch, Tổng cục Hải năm 1993  có báo Hải Quan, Bộ Xây dựng năm 2003 mới có báo tuần Xây dựng….
  Trong kháng chiến chống Pháp chỉ có tờ tạp chí Văn nghệ, không có báo tuần!
  Hội Nhà văn Việt Nam trước chỉ ngang cấp Vụ. Một vài thập kỷ lại đây thì cấp trên đã nâng cấp Hội Nhà văn Việt Nam lên cấp Tổng cục hoặc tương đương với câp Bộ. 
    Một điều hiển nhiên là tờ Tạp chí Nhà văn, tờ lý luận, sáng tác, phê bình, dịch thuật phải có. Tờ báo tuần Văn nghệ không có cũng không sao. Tờ tạp chí Nhà văn mang tính chất khoa học cao hơn. Chúng ta làm luận án phó tiến sỹ trước đây, nay là tiến sỹ về văn chương phải có công trình in trên Tạp chí Nhà văn mới được tính điểm, còn in trên báo Văn nghệ vạn bài cũng không được điểm nào. Các công trình chuyên ngành của  các bộ, ngành khác cũng vậy.
  Tờ tạp chí Nhà văn - tờ lý luận, sáng tác, phê bình, dịch thuật có đẳng cấp như vậy vì sao khi các nhà văn tên tuổi lãnh đạo ra đi để nó hôm nay tàn tạ như vậy.
   Hãy nhìn vào thực trạng
 - Số lượng in chỉ 2500 đến 3 000 bản, không phát hành được.
 - Hội Nhà văn mua bao cấp bằng tiền ngân sách chỉ 1 000 cuốn với giá hiện nay 35 000 đồng /cuốn. Tổng tiền 35 triệu.
 - Tiền in 15 000đồng/cuốn x 3 000 cuốn =  45 000 000 đồng.
  Tạp chí Nhà văn phải chạy vạy 10 triệu đồng nữa mới đủ tiền nộp nhà in!
  Chỉ được bao cấp mua 1 000 cuốn tạp chí, và cho 3 phòng làm việc không phải thuê nhà, ngoài ra không còn gì nữa. Tất tần tật từ lương cán bộ, tiền điện, tiền vi tính, tiền nối mạng, tiền ăn trưa, tiền đống góp từ thiện Tạp chí phải lo. Cán bộ chính thức, hợp đồng đều chỉ hưởng lương chính, có một ít phụ cấp không đáng kể.
 Kiếm đâu ra tiền để nuôi 10 con người trong cơ quan? Dù nuôi bằng đồng lương dưới chết đói, nuôi vịt cầm xác!
  Các nhiệm kỳ Tổng biên tập Tạp chí Nhà văn nuôi được anh em trong hai thập kỷ như vậy cũng xứng đáng được phong thánh!
  Tôi làm đây gần 10 năm từ năm 2003, 2 năm đầu làm không lương, chạy được quảng cáo thì ăn, chạy không được thì đói. Đến thời nhà thơ Nguyễn Trác làm Tổng biên tập đầu năm 2005 thì cũng mất nửa năm tôi mới có lương 400 000 đồng/ tháng vào cuối năm 2005. Mãi đến khi nhà thơ Nguyễn Trác về hưu vào tháng 3 năm 2011, tôi mới được tăng lên 800 000đồng /tháng.
Khi nhà văn Võ Thị Xuân Hà về làm Tổng biên tập tháng 4 năm 2011 tôi được hưởng lương 1 004 000 đồng/ tháng (một triệu bốn ngàn đồng). Và rồi  giữa năm 2012 được hưởng lương 1 300 000 đồng/ tháng.(một triệu ba trăm ngàn đồng)
 Kak Mak đã nói: “ Ông chủ trả lương cho người lao động không đủ sống là vô nhân đạo, là tội ác.” (Tư bản luận).
  Cơ quan nghèo như vậy làm sao trách được cấp trên.
  Ở nước ta không ai sống được bằng lương kể cả Chủ tịch nước. Tất cả đều sống bằng lậu. Cán bộ cấp cao sống bằng bổng lộc và lậu. Cán bộ cấp thấp thì mánh mung, chạy vạy.Công chức một đất nước chỉ sống bằng lậu, bổng lộc là nguy hại đến nơi. Đó là điều cha ông cảnh báo từ lâu!
   Việc để tờ Tạp chí Nhà văn ra nông nỗi này là do lãnh đạo Hội Nhà văn Việt Nam, trách nhiệm trước hết là ông Chủ tịch Hội. Lãnh đạo đã có cái nhìn không đúng về tờ tạp chí  Nhà Văn, do không hiểu biết, do ý kiến chủ quan, do cái nhìn thiển cận, do thành kiến cá nhân, do yếu kém trong quản lý và do nhiều nguyên nhân khác.
 Đôi lần dù chỉ là nhân viên quèn nhưng tôi vẫn nói thẳng với nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Nhà văn VN đến làm việc với Tạp chí: - Bên Đảng có tờ Tạp chí Cộng sản và báo Nhân dân, bên Hội Nhà văn có tờ Tạp chí Nhà văn và báo Văn nghệ, xin Chủ tịch không nhất bên trọng, nhất bên khinh.
  Nhưng Hội Nhà văn vẫn nhất bên trọng, nhất bên khinh. Tờ báo Văn Nghệ mỗi tháng bù lỗ hơn 200 triệu đồng lại xin được xây nhà cho thuê 1,8 tỷ / năm. Tờ báo Văn Nghệ đã bù lỗ rồi lại còn mở tiếp tờ Văn Nghệ Trẻ cũng bù lỗ như tờ Văn Nghệ già. Tờ Văn Học Nước Ngoài cũng bù lỗ, anh em cán bộ cũng sống lắt lay. Ngân sách trên cấp có ít ỏi năm 2006 lại mở ra tờ Tạp chí Thơ, Hội Nhà văn VN lại bù lỗ tiếp.
  Hội Nhà văn VN được trở thành Hội chính trị xã hội nghề nghiệp, được hưởng tiền ngân sách – tức là tiền thuế dân đóng. Nhưng trên cấp không nhiều. UBTQ Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Namđược cấp 600 triệu đồng/ năm (năm 1996 – năm 2000), Hội Nhà Văn VN chắc cũng chừng ấy. Số tiền ấy không bằng quan lớn bỏ ra nuôi cô tình nhân thứ bảy của mình.
  Trong bối cảnh ấy, Hội Nhà văn VN lại mở ra nhiều cơ quan cấp hai với hy vọng các cơ quan này đóng góp một phần kinh phí cho Trung ương Hội. Bởi vì khi làm đề án đơn vị nào cũng hứa đóng góp kinh phí. Nhưng than ôi, chẳng có đơn vị nào góp đóng được. Tất cả các cơ quan cấp 2 đều bấu víu vào Hội Nhà văn VN.
 Báo Văn Nghệ mở ra Văn Nghệ Trẻ hy vọng Văn Nghệ Trẻ sẽ nuôi Văn Nghệ già. Không ngờ Văn Nghệ già phải nuôi Văn Nghệ Trẻ. Tạp chí Thơ, Tạp chí Văn Học Nước Ngoài, Hồn Việt, Văn Nghệ Miền Núi đều bám vào Trung ương Hội cả.
  Trước thực trạng ấy biện pháp tối ưu là rút gọn giảm bớt các báo và tạp chí. Điều hiển nhiên ai cũng biết là Hội Nhà văn VN chỉ giữ lại tờ Tạp chí Nhà Văn và Báo Văn nghệ. Nhưng rồi nhiều lý do người ta dẹp bỏ Tạp chí Nhà văn, cho rằng nó là Tạp chí yếu kém, còn các tờ khác đều tốt hơn nó. Tạp chí Nhà văn thực sự cáo chung!
   Thật ra tất cả các báo chí hưởng ngân sách và hưởng một phần ngân sách, không báo chí nào ra được thị trường và tự sống bằng bán báo, bán tạp chí như các tờ đang tồn tại trên thị trường.
  Nhà thơ Phạm Tiến Duật, người làm thơ nổi tiếng trong chống Mỹ nhưng khi làm Tổng biên tập Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam cũng không gượng nổi. Đôi lần ông nói: Thời tiết chính trị như thế này làm sao làm hay được, in thơ hay được!

   *
  Sáng nay, ngày 20 tháng 11 năm 2012, nhà văn Võ Thị Xuân Hà báo cáo trước cuộc cơ quan lần cuối thông báo sự giải thể của Tạp chí Nhà Văn. Mặc dù nhà văn Võ Thị Xuân Hà đấu tranh quyết liệt để giữ Tạp chí Nhà Văn, nhưng không được. Các cán bộ hợp đồng, chính thức tùy nghi di tản, ai dạt được ở đâu thì dạt. Nhưng biết dạt về đâu? Ngay tôi đủ năm đóng bảo hiểm, quá tuổi về hưu mà vẫn không làm được sổ hưu vì cơ quan nợ Bảo hiễm Xã hội 70 triệu đồng không trả được. Không trả được thì cán bộ về hưu không làm được sổ hưu. Quá đau xót.
  Đánh giá cho công bằng và khách quan, năm rưỡi qua Tổng biên tập Võ Thị Xuân Hà một mình chèo chống, giữ vững Tạp chí, nuôi quân, nuôi cán. Tạp chí phát triển tốt. Nhà văn Võ Thị Xuân Hà đã gây dựng nhiều mạng lưới phát hành, nhiều đơn vị ủng hộ tài trợ cả vật chất lẫn tinh thần lâu dài cho Tạp chí. Tạp chí đang đi lên, lúa sắp sửa làm đồng hứa hẹn mùa bội thu. Nhưng tiếc thay Hội Nhà văn lại nhổ lúa đi để trồng…đay!
 Thực là :
Hội Nhà văn nhổ lúa trồng đay
Anh em Tạp chí trắng tay đứng đường!

                                      Hà Nội, 20 tháng 11 năm 2012

Thứ Ba, 20 tháng 11, 2012

Tấu Hài để cười hay để khóc ?


Tình trạng hài nhảm và nhạt còn lan cả sang các nhà làm phim, cho dù họ bỏ cả đống tiền ra làm quảng cáo, tuyên truyền, nói hay và "tự sướng" với những lời rêu rao khen hay đến nức nở. Hóa ra khán giả bị lừa. Hẳn nhiều khán giả còn nhớ đến trường hợp bộ phim truyền hình "Những người độc thân vui vẻ", một kịch bản của nước ngoài đã bị dừng giữa chừng cách đây ít năm, vì sự phản ứng của khán giả và sự lên tiếng của giới truyền thông. Đây là một bộ phim  yếu kém về diễn xuất, đuối sức trong khâu dàn dựng, cho dù các diễn viên đều là những tên tuổi khá quen thuộc. Sau đó là hàng loạt phim hài ra đời, kể cả phim nhựa lẫn phim truyền hình như: "Gia sư nữ quái", "Công chúa Teen và ngũ hổ tướng", "Em hiền như ma sơ", "Hoán đổi thân xác", "Cảm hứng hoàn hảo"… Đặc biệt mới đây, sự xuất hiện của hai cuốn phim nhựa "Hello cô Ba" và "Nàng Men chàng Bóng" đã đóng góp thêm cho sự xuống dốc của dòng phim hài nhảm và nhạt này. 


TẤU HÀI ĐỂ CƯỜI HAY ĐỂ KHÓC?

CHUNG TỬ

Nhìn biểu đồ đường khúc khuỷu miêu tả sự lên xuống của thị trường sân khấu hay phim hài, mới hay đoạn cuối của đồ thị đang có nguy cơ xuống dốc sau mươi năm rầm rộ thăng tiến. Phải chăng khán giả quay lưng hay vì các nghệ sĩ đã cảm thấy uể oải? Hoặc vì nét duyên kia đã tàn phai làm cho cuộc giao lưu giữa những nụ cười đứt gánh? Sân khấu đìu hiu. Vì sao thế?

1.
Nếu nhìn qua về số lượng nhóm diễn hài sau mươi năm, từ 40 đơn vị tăng lên tới con số xấp xỉ 100 tại TPHCM thì hẳn ai cũng ngỡ như sân khấu hài phát triển hùng mạnh lắm. Thực ra, điều này tỉ lệ nghịch với biểu đồ về chất lượng chuyên môn mà khán giả đã hình dung. Nghệ sĩ hài quen thuộc Anh Vũ cũng thổ lộ một cách thất vọng rằng, hài bây giờ ế ẩm lắm, và rằng chỉ còn vài tụ điểm là hoạt động đều đặn mà thôi. Nếu trước kia anh và các nghệ sĩ như Hoàng Sơn, Minh Béo, Trung Dân, Thúy Nga… chạy sô không hết vi ệc, thì vài năm trở lại đây, ai nấy đều chỉ tham gia mỗi tuần một suất. May ra cộng tác được vài tụ điểm. Bản thân Anh Vũ cũng chỉ diễn một lèo, chạy 3 tụ điểm là hết việc; tiền cát sê cũng chỉ để tiêu vặt chứ không rủng rỉnh như xưa. Chính vì điều này mà số người diễn có tài thật sự cũng khó bon chen trong hàng trăm nghệ sĩ rởm, kể cả khi đến với các tụ điểm trong thành phố hay xuống địa phương phục vụ bà con. 
Nhiều nghệ sĩ kêu, hiện không có mấy kịch bản hay, nhất là kịch bản hài, nên để gây cười cho khán giả quả là khó khăn. Nhiều nhóm hay đoàn diễn hài đều lấy tiết mục cũ để diễn kiếm ăn, nhưng cách làm này cũng không cứu vãn được sự đổ vỡ khi các kịch bản mới trở nên bế tắc. Nhất là hiện tượng ai cũng có thể đứng ra lập nhóm hài, nhà nhà diễn hài, tạo nên sự xô bồ và khủng hoảng tiết mục.
Đội ngũ tác giả ít ỏi, nhưng lại sinh ra nhiều cây bút nghiệp dư, tự biên tự diễn nên các nhóm hài giẫm chân nhau về cách diễn lẫn nội dung. Điều này chứng minh rất rõ: Ngay cả trong Hội diễn Liên hoan sân khấu hài chuyên nghiệp diễn ra ở Quảng Ninh cuối năm 2011, nổi lên hiện tượng trùng lặp khá nhiều tiết mục về Thị Nở và Chí Phèo hay Mẹ Đốp, Xã trưởng. Tình trạng đáng buồn này, chính nghệ sĩ trẻ Thu Trang, một người được mệnh danh là "Nữ quái của tiếng cười" cũng than thở: "Sẽ chết đói vì các tụ điểm hài dẹp hết rồi". Còn nghệ sĩ gạo cội Trung Dân tâm sự rằng, mỗi tuần anh chỉ diễn được một đêm đã là may.
Tình trạng hài nhạt và nhàm này còn thể hiện khá nhiều và liên tục trên các kênh truyền hình ở cả hai miền Nam, Bắc. Theo cách tính của đạo diễn Đỗ Thanh Hải - ông bầu của chương trình "Gặp nhau cuối tuần" (VTV3) - trước đây chẳng hạn: Mỗi năm phải làm 52 chương trình, vậy phải có trong tay khoảng 300 kịch bản để chọn, thì lấy đâu ra có chất lượng. Gắng lắm chương trình kéo dài tới dăm, bảy năm cũng đứt gánh, dừng hẳn một thời gian. Nghỉ xả hơi vài năm, nhà Đài cho ra chương trình "Thư giãn cuối tuần" thay thế, nhưng cũng chỉ được một dạo nổi lên với tiết mục "Hỏi xoáy đáp xoay" do Tiến Dũng và Xuân Bắc diễn xuất. Nhưng rồi sau khi Tiến Dũng bỏ cuộc chơi vì thấy "hết vị", giờ đây mọi chuyện đã trở nên gượng gạo với sự lắp ghép khiên cưỡng và khập khiễng giữa các tiết mục hài của hai miền. Người xem không còn đón chờ "Thư giãn cuối tuần" vì sự lờ nhờ, gượng gạo hiện nay.
Hơn nữa, mọi chuyện càng trở nên nhàm chán, không phải chỉ ở nội dung kịch bản, mà còn ở những gương mặt nghệ sĩ quá quen thuộc, với cách diễn giống nhau ở mọi vai, và xuất hiện ở mọi kênh truyền hình.  Ai cũng rõ, cho dù không ít nghệ sĩ có tài như Hồng Vân, Minh Nhí, Trấn Thành, Hoài Linh, Hạnh Thúy, Anh Vũ, Hoàng Sơn… ở Tp HCM; hay các gương mặt quen thuộc ở Hà Nội như Công Lý, Quang Thắng, Vân Dung, Chí Trung, Quang Tèo, Văn Hiệp… nhưng với các kịch bản yếu kém như hiện nay, thì họ có cố diễn làm sao cho đỡ vô duyên là may. Thường ra, với không ít tiết mục, chính họ cũng không dám xem lại mình đã diễn vai như thế nào nữa. Bởi lẽ vai không ra vai, chỉ là những tình huống, khó có thể lấy được tiếng cười của người xem.
Bên cạnh đó, còn nhiều chương trình hài khác như "Xả xì choét", "Cười từ nhà ra phố", "Vui bốn phương, cười tám hướng", "Gặp nhau để cười"… dù cố gắng đến mấy cũng vẫn những gương mặt quen thuộc đến "tã", đến "nhầu" rồi thì không cứu vớt nổi tình trạng khán giả buộc phải nuốt "cục tức" mỗi lần bật kênh hài. Nhất là mấy năm gần đây, nhiều tiết mục cố đem chiêu trò giễu nhại, phóng đại những khuyết tật hay cách ăn nói của người nhà quê để gây cười quá lố bịch. Nghệ sĩ hài Chí Trung đã có lần bộc bạch rằng, hài trên truyền hình là hài xem miễn phí, hài "mậu dịch", ngay cả người thực hiện cũng chỉ cho là "chuyện thoáng qua", nên làm đơn giản, sơ sài… Do đó những gì khán giả được thưởng thức quả là không chịu nổi. 

2.
 Tình trạng hài nhảm và nhạt còn lan cả sang các nhà làm phim, cho dù họ bỏ cả đống tiền ra làm quảng cáo, tuyên truyền, nói hay và "tự sướng" với những lời rêu rao khen hay đến nức nở. Hóa ra khán giả bị lừa. Hẳn nhiều khán giả còn nhớ đến trường hợp bộ phim truyền hình "Những người độc thân vui vẻ", một kịch bản của nước ngoài đã bị dừng giữa chừng cách đây ít năm, vì sự phản ứng của khán giả và sự lên tiếng của giới truyền thông. Đây là một bộ phim  yếu kém về diễn xuất, đuối sức trong khâu dàn dựng, cho dù các diễn viên đều là những tên tuổi khá quen thuộc.
Sau đó là hàng loạt phim hài ra đời, kể cả phim nhựa lẫn phim truyền hình như: "Gia sư nữ quái", "Công chúa Teen và ngũ hổ tướng", "Em hiền như ma sơ", "Hoán đổi thân xác", "Cảm hứng hoàn hảo"… Đặc biệt mới đây, sự xuất hiện của hai cuốn phim nhựa "Hello cô Ba" và "Nàng Men chàng Bóng" đã đóng góp thêm cho sự xuống dốc của dòng phim hài nhảm và nhạt này.
Chắc khán giả chẳng thể quên, trong phim "Hello cô Ba" xuất hiện cảnh Tư Lặn (Hoài Linh đóng) nhìn cô Lành tắm, nhưng không ngờ bị ngã xuống giếng. Thế rồi từ đó, Tư Lặn có tài tiên đoán trước mọi việc và trở thành cô Ba bói toán; và cứ thế câu chuyện được kéo dài với tất cả các màn tấu hài ghép lại để diễn một cách cẩu thả, với những tình huống dở khóc dở cười. Sau khi trình chiếu, phim bị dư luận khán giả lên án như một thảm họa cho làng phim nước nhà về mọi khía cạnh. Vậy mà chẳng bao lâu sau, lại thêm bộ phim "Nàng Men chàng Bóng", khai thác chuyện về giới đồng tính được công chiếu, càng gây thêm sự nhiễu loạn cho người xem, cũng bởi sự lắp ghép rời rạc những màn hài kịch ngẫu nhiên và nhạt nhẽo.
Với mục đích siêu lợi nhuận, các nhà làm phim kiểu này chỉ cần tập hợp một số nghệ sĩ hài ăn khách và lắp ghép cho có chuyện để diễn, miễn là gây cười. Sau đó là đưa vào công nghệ PR. Các phim đều được quảng bá liên tục và nhấn mạnh những hình ảnh gây tò mò cho người xem, với các gương mặt hài xuất hiện trên phim như Hoài Linh, Tấn Beo, Hiếu Hiền, Ngô Kiến Huy, Đinh Ngọc Diệp, Phi Nhung, Việt Anh… Phim nào họ cũng gom các nghệ sĩ hài ăn khách của sân khấu thị trường vào một nồi lẩu thập cẩm, đủ trò gây cười để câu khách. Có thể họ tự hào vì doanh thu, nhưng xem ra theo đuổi dòng phim giải trí rẻ tiền như vậy, họ đã có tội trong việc đem những hoàn cảnh trớ trêu của con người ra để làm trò cười và góp phần làm lệch lạc thẩm mỹ nghệ thuật cho một số khán giả dễ tính.
3. Vậy là khoảng vài ba năm nay, sân khấu hài ở những thành phố lớn đều có sự khủng hoảng và bế tắc trước sự đòi hỏi đổi mới của người xem. Hiện tượng người xem quay lưng là một minh chứng. Sân khấu hài không còn sáng đèn đêm đêm, không phải bởi ảnh hưởng của sự khủng hoảng của nền kinh tế toàn cầu, mà chính là ở chất lượng ngày càng yếu kém, thiếu sự sáng tạo, đổi mới từ sàn diễn của các nghệ sĩ. Thật đáng buồn, khi có nghệ sĩ còn thách thức dư luận bằng những lý sự cùn rằng, nếu không thích thì đừng bật kênh xem nữa; còn nếu xem thì chớ kêu. Họ tuyên ngôn: "Bằng mọi cách làm cho khán giả cười, thế thôi". Tất nhiên khán giả không bao giờ chấp nhận thái độ phản ứng như vậy. Và sân khấu hài đã phải trả giá bởi hệ lụy đó

Gió hiu hiu thổi gãy cột đèn


Hơn 23 giờ, tiếng chuông báo có tin nhắn từ cái điện thoại di động khiến tôi giật mình. “Chào ông. Tôi có một chuyện rất bức xúc muốn nhờ ông viết báo”. Số máy quen thuộc của một nhà giáo ở miền Trung. Tôi trả lời: “Xin lỗi. Tôi không có khả năng viết về tranh chấp đất đai và vướng mắc thuế!”. Lại tít tít: “Không, tôi chỉ nói về nghề nghiệp của tôi, muốn giải bày ở mục nào đọc để ngẫm nghĩ đấy. Nếu ông đồng ý, tôi sẽ gọi cho ông ngay!”. Tôi đã từng gặp anh, một nhà giáo luôn khao khát đổi mới phương pháp dạy học, một nhà giáo thường vận động học sinh tham gia vào các hoạt động có ý nghĩa xã hội. Tôi nhớ có lần chứng kiến anh đang khuyến khích học trò của mình ủng hộ đồng bào bị lũ lụt, anh bảo: “Các em cứ quyên góp tùy khả năng và lòng hảo tâm của mỗi người, sau đó thầy sẽ trích lương để thêm vào cho tròn số!”. Đã nhiều năm trôi qua, tôi cảm phục việc làm ấy. Tôi quyết định gọi cho anh, dù kim đồng hồ đã nhích dần vào nửa đêm

.

    GIÓ HIU HIU THỔI GÃY CỘT ĐÈN
                TUY HÒA

Thầy giáo: Tôi vừa đi dự lễ kỷ niệm thành lập khoa Văn ở Sài Gòn về.                       
Người viết: Chúc mừng anh. Bây giờ rất ít người nhớ đến trường lớp cũ
Thầy giáo: Tôi háo hức lắm. Trước khi đi, hai cậu em tôi có ý không đồng tình, đã bị tôi nạt cho một trận. Kết quả, thật bẽ bàng. Ông có biết không, lễ đón tiếp có hai dãy bàn, một bên nhận quà tặng có cả hàng dài chờ đến lượt mình, còn một bên kêu gọi thành lập quỹ khoa Văn chỉ có vài ba người. Thế nhưng, chuyện tiền bạc bỏ qua, không nói làm gì. Tôi cô đơn ngay giữa môi người đã đào tạo mình nên người, ông ạ.
Người viết: Người ta chỉ đón tiếp quan chức, không để ý đến một giáo viên tỉnh lẻ như ông à?
Thầy giáo: Không, tôi học 4 năm sư phạm, bạn bè biết mặt nhau chắc cũng vài trăm người, nhưng tôi chỉ gặp được ba người quen. Hai người kia bây giờ đi làm báo, nên đến dự để đưa tin, còn một người đang công tác tại khoa. Vừa buồn vừa giận, tôi gọi liền hơn hai chục cuộc điện thoại cho những người cùng khóa đang dạy học tại TPHCM. Có người bảo: “Đi làm gì, rách việc!”, có người bảo: “Bận chạy show thỉnh giảng!”, thậm chí có người ngơ ngác: “Kỷ niệm thành lập khoa mình hả, tui không biết!”. Tôi muốn khóc, ông à!
Người viết: Sao lại khóc? Bạn bè ông đều là những người thành thật đấy.
Thầy giáo: Tôi vượt mấy trăm cây số đi dự, còn họ ở ngay tại thành phố mà cũng không đến được. Một chút thời gian cỏn con để gặp thầy xưa bạn cũ, có khó khăn gì đâu, có mất mát gì đâu?
Người viết: Ông phải thông cảm cho đồng nghiệp chứ. Họ có nhiều việc phải lo lắm, lo dạy thêm, lo soạn sách tham khảo, lo trang bị bằng cấp cao hơn, lo dọn đường cho việc thăng chức…
Thầy giáo: Nhưng nhiệm vụ chính của giáo viên là dạy học mà? Tôi không hiểu đồng nghiệp tôi sẽ dạy bài học “uống nước nhớ nguồn” như thế nào…Giáo viên phải lấy chính mình làm tấm gương cho học trò chứ!
Người viết: Tôi cũng nghĩ vậy. Bây giờ thấy cô giáo dính líu đến chuyện chạy trường, thầy giáo đổi tình lấy điểm… mà cay đắng và xót xa. Xin lỗi ông, tôi nói thẳng. Tiêu cực trong kinh tế chỉ là hành vi ăn cắp tài sản của xã hội, còn tiêu cực trong giáo dục phải gọi cho đúng là hành vi ăn cắp đạo đức của dân tộc.
Thầy giáo: Đúng, đúng… Tài sản mất có thể kiếm lại, nhưng đạo đức mất thì hệ lụy không sao kể hết. Đừng tưởng lỗ nhỏ không thể đắm thuyền lớn.
Người viết: Tôi kể chuyện này ông nghe nhé. Khi vụ tham ô ở Đồ Sơn được mang ra xét xử lại, tôi có dịp ghé qua Hải Phòng. Tôi ngồi quán cóc ở bên bờ Tam Bạc nghe dân đất cảng nói chuyện với nhau, và họ kết luận một câu rất đáo để: “Đừng đùa với nhau nhé. Gió hiu hiu thổi gãy cột đèn đấy!”
Thầy giáo: Gió hiu hiu thổi gãy cột đèn! Hay quá, hay quá! Sau khi đi hội trường, tôi từ một người ghét cay ghét đắng nhạc trẻ bỗng nhiên thấy nhạc trẻ cũng có lý. Vẫn muốn “đừng để nỗi đau thêm dài” nên tự nguyện “đau một lần rồi thôi”, ai ngờ “không đau vì quá đau”.