Thứ Tư, 26 tháng 12, 2012

Thơ dịch và Dịch thơ


Khoảng mươi mười lăm năm trở lại đây, nhờ xã hội trở nên cởi mở hơn nên sự giao lưu về đời sống tinh thần được gia tăng, sách dịch ngày càng đa dạng, càng nhiều. Nhưng trong cảnh phát triển xô bồ của đời sống hôm nay, không ít loại sách dịch bị giảm chất lượng, đặc biệt là sách văn học và nhất là thơ. Dường như, nhà xuất bản nào cũng để lọt sách dịch không đạt chất lượng, rất nhiều khâu bị lỗi. Ngay cả những nơi từng có uy tín cao nhưng bây giờ nhìn kỹ vào chất lượng sách dịch được in ra vẫn thấy gợn không ít sạn. Hơn nữa, xã hội hiện nay cũng đã trở nên cởi mở và tinh tường hơn đối với các dịch phẩm, khiến ngay cả những dịch giả nổi tiếng nhất khi công bố tác phẩm của mình cũng phải thận trọng vì dễ bị đối mặt với những khen chê rất khác nhau...



TẢN MẠN VỀ THƠ DỊCH

LA VĂN TIẾN

1. Tôi cũng không rõ là có nên dùng cụm từ “đội ngũ những người dịch văn học” hay không, bởi lẽ, phần đông những người dịch văn học hiện nay đều mạnh ai nấy làm, theo nhu cầu và năng lực cá nhân, manh mún, nhỏ lẻ. Dịch văn học không hẳn là chuyển ngữ. Đó là một sự sáng tác lại. Với thơ, 80% chất lượng phụ thuộc vào người dịch. Bất kỳ một nhà thơ trứ danh nào, nếu không “chọn” được người dịch khả dĩ thì đều có thể bị thất bại trong một ngôn ngữ khác. Không ít trường hợp dịch giả Việt Namđã “hạ sát” các thi nhân vĩ đại trên thế giới bằng tiếng Việt! Ngay những người có tên tuổi cũng làm “hàng” giả, đôi khi chỉ vì vô tình thôi, chỉ vì tài và tâm chỉ đến được mức độ ấy mà thôi. Thực sự là chúng ta không có những người thẩm định khách quan và sành điệu để đánh giá chuẩn xác về các tác phẩm văn học dịch. Nguyên nhân chính của hiện tượng này có lẽ là do quyền lợi “bầy đoàn”, cánh hẩu. Hoặc do sự hạn chế của chính những người cứ tưởng mình nắm chân lý trong tay như viên sỏi vậy... Tình hình trên quả thực đã ảnh hưởng không tốt đến văn học dịch, không nhiều người hiện nay dịch sách xuất phát từ khát khao cống hiến, khát khao góp phần bồi bổ những tinh hoa của văn học thế giới cho văn học quốc nội. Lớp trẻ hiện nay cũng có không ít tên tuổi nổi lên, nhưng nhìn chung, cũng không tạo được thành đội ngũ. Nói một cách công bằng, có những người trẻ dịch văn học chẳng thua gì các lớp cha chú, thậm chí còn hơn, nhưng vẫn bị “xoa đầu”. Thành ra họ nhảy ra ngoài cuộc chơi mà tham dự chủ yếu chỉ là những uy tín, lắm khi chỉ là “vang bóng một thời” mà thôi. Và vì thế, chúng ta không có sự kế thừa...
2. Một thời khá dài, thơ Nga cổ điển và thơ Nga Xôviết đã làm chủ “diễn đàn văn học dịch” ở ta. Đó cũng là điều hay, nhưng có lẽ chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được thế là may hay rủi. Cần biết chấp nhận thực tế như nó đã xảy ra. Một điều cần nói là, cho tới hôm nay vẫn chưa có ai đánh giá được đúng và đủ về chất lượng các bản dịch thơ tiếng Nga ra tiếng Việt như thế nào. Liệu chúng ta đã dựng được một nền thơ Nga đúng tầm với họ  bằng tiếng Việt hay chưa?
Tất nhiên, chẳng ai dại gì vạch áo cho người xem lưng, nên mọi sự đánh giá đến nay chỉ là cảm tính mà thôi. Sự thật thì không ít những bản dịch đã “ám sát” thi nhân nước ngoài bằng tiếng Việt. Tôi xin nhắc lại, hình như việc dịch thơ ở Việt Namđều là tự phát. Trong một nền kinh tế manh mún và nhỏ lẻ, đó cũng là điều đáng hoan nghênh vì chính nhờ lao động đầy ngẫu hứng và tình yêu cá nhân ấy mà chúng ta đã tạo nên được những ấn tượng nhất định trong lòng công chúng về thi ca thế giới. Nhưng chúng ta hầu như chưa làm được mấy việc để tạo dựng lại diện mạo những nền thơ lớn trên thế giới bằng tiếng Việt. Ngoại lệ có lẽ chỉ là thơ Đường! Thời gian qua, Nhà sách Đông Tây đã rất cố gắng để làm việc này, nhưng theo tôi, lực bất tòng tâm, hiệu quả đạt được chưa như mong đợi.
Hiện nay một số người có xu hướng lăng xê một số tác giả tiền phong của thơ Mỹ nói riêng và thơ phương Tây nói chung, coi như những ngọn cờ cần noi theo. Tôi thấy mọi sự hơi buồn cười... 
3. Rất khó dựng một nhà thơ nước ngoài bằng tiếng Việt ở mức độ tương đương với họ. Mỗi dân tộc hãy tự  “chăm lo” cho mình. Thơ có tính khu biệt khủng khiếp. Thơ phụ thuộc một cách cốt tử vào ngôn ngữ mà nó được viết ra. Mỗi đất nước, mỗi dân tộc đều có cách hình dung về thơ khác nhau. Bản thân mỗi một nhà thơ cũng có cách nhìn nhận riêng của mình về tính hiện đại trong thơ. Thơ không bao giờ là sự sáng tạo bầy đoàn. Tuyệt đối hóa một xu thế thơ như thể đó là duy nhất đúng bao giờ cũng là việc có hại cho sáng tác. Chúng ta không có nghĩa vụ coi bất cứ uy tín  ngoại lai nào là chuẩn mực. Mỗi dân tộc đều có bản sắc thơ riêng của mình... Mỗi nhà thơ cần có tiếng nói, dù nhỏ nhẹ, nhưng là riêng của cá nhân mình...
Tôi nghĩ là không thể dịch thơ “một trùng một” về ngữ nghĩa được. Có người đã từng khoe rằng họ dịch thơ nước ngoài sang tiếng Việt tới mức giữ được cả nhịp điệu, số lượng từ trong câu... Thật hoang tưởng, làm gì có chuyện ấy khi mỗi một ngôn ngữ có một kiểu hành văn khác nhau. Dịch thơ là phải đồng điệu tâm hồn với tác giả. Mình phải “lên đồng” cùng với tác giả. Dịch thơ không thể làm “cơ khí” được. Bởi thơ hay ở hồn vía. Nó hay ở cách tập hợp từ, liên kết từ, ở ngữ nghĩa của từng từ một, ở khoảng giữa các từ ấy.
Những người “tung” như vậy không hiểu về đối tượng mình viết. Ở Việt Namhiện nay đang có những nhà thơ với vốn ngoại ngữ tốt và từng có điều kiện tiếp xúc sâu với một số nền thơ nước ngoài nên dễ bị mang tiếng là chịu ảnh hưởng của những nền thơ đó. Tuy nhiên, sự thật cũng không hẳn như vậy, thậm chí là không phải như vậy. Ai biết thế nào là chất thơ Mỹ La tinh hay chất thơ Nga?! Cần phải thấy rằng, các nhà thơ ở Mỹ La tinh cũng như các nhà thơ Nga rất khác nhau. Mỗi một nhà thơ lớn là một thế giới, làm gì có cái gọi là chất Mỹ La tinh hay chất Nga chung chung ấy được? Hơn nữa, không một nhà thơ nào có thể quên được văn hoá của tổ tiên đến mức chịu ảnh hưởng của thơ nước ngoài. Mỗi một nhà thơ là một thế giới riêng thu nhỏ, nó khác nhau khủng khiếp...
4. Không có nền văn học hiện đại nào mà  chúng ta phải nhắm mắt đi theo cả. Bắt chước hay học đòi tân tiến là rất gây phản cảm. Làm thế chỉ là tuân theo một sự nô lệ kiểu mới, rất có hại cho đất nước. Đấy là chưa kể rằng, việc lăng xê một số tác giả thời thượng nước ngoài hiện nay là hoàn toàn vì mục đích thương mại. Trong quá khứ, chúng ta đã bị sai lầm khi thần tượng hoá một số người mà lẽ ra chỉ đáng để “tham khảo” chứ không phải để sao chép.
Thơ khi đã được dịch sang tiếng Việt là để cho người Việt đọc. Nếu như bảo đó là không phải Việt hoá thì rất buồn cười. Trong quá trình dịch, dịch giả càng giỏi thì giữ được đặc tính và bản sắc của nguyên bản ở mức độ cao nhưng thực ra, dịch sang tiếng Việt là đã Việt hoá rồi. Mỗi một từ của nước ngoài là một điển tích trong ngôn ngữ ấy, đưa sang thứ tiếng khác là khác đi vô số tình tiết rồi. Đặt vấn đề Việt hoá hay không là rất tầm phào. 

5. Hội đồng văn học dịch ở tổ chức nghề nghiệp của những người làm văn học chỉ có tác dụng nếu nó tạo nên được sự đánh giá đúng về chất lượng các bản dịch và những người dịch, giúp đỡ những người tâm huyết với công việc dịch văn học.  Còn không, đó chỉ là nơi ngồi cho những ai nghĩ rằng mình có quyền gì đó đối với các tác phẩm văn học dịch nhưng thực ra lại chỉ là “hữu danh vô thực” mà thôi... Phần lớn người dịch hiện nay đều làm theo sở thích của họ. Một số người dịch thơ thông qua đại sứ quán nhằm mục đích truyền bá văn hoá. Những tập thơ này, thường không đạt hiệu quả. Dịch thơ đôi khi còn nặng hơn làm thơ. Nó phải “diễn” tâm trạng người khác, vừa được giữ chất của mình. Dường như viết nhân vật đã khó, đóng nhân vật càng khó hơn. Hội đồng dịch cần phải đãi cát tìm vàng trong cái  mênh mông hỗn mang hiện nay.

6. Việc bản quyền làm nhiều người lo ngại. Phần lớn nhà thơ nước ngoài khi hay tin thơ của mình được dịch sang tiếng Việt sẽ không đòi tiền bản quyền. Vì bản quyền phải cân bằng với tỉ lệ thu nhập. Trong tình hình hiện nay, khó ai có thể thu lãi  nhờ việc bán thơ. Nếu như để in sách thì phải liên hệ với tác giả, còn dịch cho “vui” thì thôi. Không ai kết tội mình yêu thơ của mình. Tôi tin là họ sẽ hiểu và rất sung sướng khi người dịch thơ của mình hay. Đừng sợ công ước Berne mà chỉ sợ không dịch được thôi!
Nếu có điều kiện (đặc biệt dùng để tham khảo) thì nên in song ngữ là tốt nhất để người đọc biết được nguyên bản. Thực ra, dịch thơ là những phút ngẫu hứng trên chủ đề của nguyên bản. Ngay như, bản dịch Đợi anh về của nhà thơ Tố Hữu hay không phải là ông nhất nhất tuân thủ nguyên bản tiếng Nga vì ông dịch từ bản tiếng Pháp.

Nguồn: ANTG Cuối Tháng


Thơ dịch và Dịch thơ


Khoảng mươi mười lăm năm trở lại đây, nhờ xã hội trở nên cởi mở hơn nên sự giao lưu về đời sống tinh thần được gia tăng, sách dịch ngày càng đa dạng, càng nhiều. Nhưng trong cảnh phát triển xô bồ của đời sống hôm nay, không ít loại sách dịch bị giảm chất lượng, đặc biệt là sách văn học và nhất là thơ. Dường như, nhà xuất bản nào cũng để lọt sách dịch không đạt chất lượng, rất nhiều khâu bị lỗi. Ngay cả những nơi từng có uy tín cao nhưng bây giờ nhìn kỹ vào chất lượng sách dịch được in ra vẫn thấy gợn không ít sạn. Hơn nữa, xã hội hiện nay cũng đã trở nên cởi mở và tinh tường hơn đối với các dịch phẩm, khiến ngay cả những dịch giả nổi tiếng nhất khi công bố tác phẩm của mình cũng phải thận trọng vì dễ bị đối mặt với những khen chê rất khác nhau...



TẢN MẠN VỀ THƠ DỊCH

LA VĂN TIẾN

1. Tôi cũng không rõ là có nên dùng cụm từ “đội ngũ những người dịch văn học” hay không, bởi lẽ, phần đông những người dịch văn học hiện nay đều mạnh ai nấy làm, theo nhu cầu và năng lực cá nhân, manh mún, nhỏ lẻ. Dịch văn học không hẳn là chuyển ngữ. Đó là một sự sáng tác lại. Với thơ, 80% chất lượng phụ thuộc vào người dịch. Bất kỳ một nhà thơ trứ danh nào, nếu không “chọn” được người dịch khả dĩ thì đều có thể bị thất bại trong một ngôn ngữ khác. Không ít trường hợp dịch giả Việt Namđã “hạ sát” các thi nhân vĩ đại trên thế giới bằng tiếng Việt! Ngay những người có tên tuổi cũng làm “hàng” giả, đôi khi chỉ vì vô tình thôi, chỉ vì tài và tâm chỉ đến được mức độ ấy mà thôi. Thực sự là chúng ta không có những người thẩm định khách quan và sành điệu để đánh giá chuẩn xác về các tác phẩm văn học dịch. Nguyên nhân chính của hiện tượng này có lẽ là do quyền lợi “bầy đoàn”, cánh hẩu. Hoặc do sự hạn chế của chính những người cứ tưởng mình nắm chân lý trong tay như viên sỏi vậy... Tình hình trên quả thực đã ảnh hưởng không tốt đến văn học dịch, không nhiều người hiện nay dịch sách xuất phát từ khát khao cống hiến, khát khao góp phần bồi bổ những tinh hoa của văn học thế giới cho văn học quốc nội. Lớp trẻ hiện nay cũng có không ít tên tuổi nổi lên, nhưng nhìn chung, cũng không tạo được thành đội ngũ. Nói một cách công bằng, có những người trẻ dịch văn học chẳng thua gì các lớp cha chú, thậm chí còn hơn, nhưng vẫn bị “xoa đầu”. Thành ra họ nhảy ra ngoài cuộc chơi mà tham dự chủ yếu chỉ là những uy tín, lắm khi chỉ là “vang bóng một thời” mà thôi. Và vì thế, chúng ta không có sự kế thừa...
2. Một thời khá dài, thơ Nga cổ điển và thơ Nga Xôviết đã làm chủ “diễn đàn văn học dịch” ở ta. Đó cũng là điều hay, nhưng có lẽ chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được thế là may hay rủi. Cần biết chấp nhận thực tế như nó đã xảy ra. Một điều cần nói là, cho tới hôm nay vẫn chưa có ai đánh giá được đúng và đủ về chất lượng các bản dịch thơ tiếng Nga ra tiếng Việt như thế nào. Liệu chúng ta đã dựng được một nền thơ Nga đúng tầm với họ  bằng tiếng Việt hay chưa?
Tất nhiên, chẳng ai dại gì vạch áo cho người xem lưng, nên mọi sự đánh giá đến nay chỉ là cảm tính mà thôi. Sự thật thì không ít những bản dịch đã “ám sát” thi nhân nước ngoài bằng tiếng Việt. Tôi xin nhắc lại, hình như việc dịch thơ ở Việt Namđều là tự phát. Trong một nền kinh tế manh mún và nhỏ lẻ, đó cũng là điều đáng hoan nghênh vì chính nhờ lao động đầy ngẫu hứng và tình yêu cá nhân ấy mà chúng ta đã tạo nên được những ấn tượng nhất định trong lòng công chúng về thi ca thế giới. Nhưng chúng ta hầu như chưa làm được mấy việc để tạo dựng lại diện mạo những nền thơ lớn trên thế giới bằng tiếng Việt. Ngoại lệ có lẽ chỉ là thơ Đường! Thời gian qua, Nhà sách Đông Tây đã rất cố gắng để làm việc này, nhưng theo tôi, lực bất tòng tâm, hiệu quả đạt được chưa như mong đợi.
Hiện nay một số người có xu hướng lăng xê một số tác giả tiền phong của thơ Mỹ nói riêng và thơ phương Tây nói chung, coi như những ngọn cờ cần noi theo. Tôi thấy mọi sự hơi buồn cười... 
3. Rất khó dựng một nhà thơ nước ngoài bằng tiếng Việt ở mức độ tương đương với họ. Mỗi dân tộc hãy tự  “chăm lo” cho mình. Thơ có tính khu biệt khủng khiếp. Thơ phụ thuộc một cách cốt tử vào ngôn ngữ mà nó được viết ra. Mỗi đất nước, mỗi dân tộc đều có cách hình dung về thơ khác nhau. Bản thân mỗi một nhà thơ cũng có cách nhìn nhận riêng của mình về tính hiện đại trong thơ. Thơ không bao giờ là sự sáng tạo bầy đoàn. Tuyệt đối hóa một xu thế thơ như thể đó là duy nhất đúng bao giờ cũng là việc có hại cho sáng tác. Chúng ta không có nghĩa vụ coi bất cứ uy tín  ngoại lai nào là chuẩn mực. Mỗi dân tộc đều có bản sắc thơ riêng của mình... Mỗi nhà thơ cần có tiếng nói, dù nhỏ nhẹ, nhưng là riêng của cá nhân mình...
Tôi nghĩ là không thể dịch thơ “một trùng một” về ngữ nghĩa được. Có người đã từng khoe rằng họ dịch thơ nước ngoài sang tiếng Việt tới mức giữ được cả nhịp điệu, số lượng từ trong câu... Thật hoang tưởng, làm gì có chuyện ấy khi mỗi một ngôn ngữ có một kiểu hành văn khác nhau. Dịch thơ là phải đồng điệu tâm hồn với tác giả. Mình phải “lên đồng” cùng với tác giả. Dịch thơ không thể làm “cơ khí” được. Bởi thơ hay ở hồn vía. Nó hay ở cách tập hợp từ, liên kết từ, ở ngữ nghĩa của từng từ một, ở khoảng giữa các từ ấy.
Những người “tung” như vậy không hiểu về đối tượng mình viết. Ở Việt Namhiện nay đang có những nhà thơ với vốn ngoại ngữ tốt và từng có điều kiện tiếp xúc sâu với một số nền thơ nước ngoài nên dễ bị mang tiếng là chịu ảnh hưởng của những nền thơ đó. Tuy nhiên, sự thật cũng không hẳn như vậy, thậm chí là không phải như vậy. Ai biết thế nào là chất thơ Mỹ La tinh hay chất thơ Nga?! Cần phải thấy rằng, các nhà thơ ở Mỹ La tinh cũng như các nhà thơ Nga rất khác nhau. Mỗi một nhà thơ lớn là một thế giới, làm gì có cái gọi là chất Mỹ La tinh hay chất Nga chung chung ấy được? Hơn nữa, không một nhà thơ nào có thể quên được văn hoá của tổ tiên đến mức chịu ảnh hưởng của thơ nước ngoài. Mỗi một nhà thơ là một thế giới riêng thu nhỏ, nó khác nhau khủng khiếp...
4. Không có nền văn học hiện đại nào mà  chúng ta phải nhắm mắt đi theo cả. Bắt chước hay học đòi tân tiến là rất gây phản cảm. Làm thế chỉ là tuân theo một sự nô lệ kiểu mới, rất có hại cho đất nước. Đấy là chưa kể rằng, việc lăng xê một số tác giả thời thượng nước ngoài hiện nay là hoàn toàn vì mục đích thương mại. Trong quá khứ, chúng ta đã bị sai lầm khi thần tượng hoá một số người mà lẽ ra chỉ đáng để “tham khảo” chứ không phải để sao chép.
Thơ khi đã được dịch sang tiếng Việt là để cho người Việt đọc. Nếu như bảo đó là không phải Việt hoá thì rất buồn cười. Trong quá trình dịch, dịch giả càng giỏi thì giữ được đặc tính và bản sắc của nguyên bản ở mức độ cao nhưng thực ra, dịch sang tiếng Việt là đã Việt hoá rồi. Mỗi một từ của nước ngoài là một điển tích trong ngôn ngữ ấy, đưa sang thứ tiếng khác là khác đi vô số tình tiết rồi. Đặt vấn đề Việt hoá hay không là rất tầm phào. 

5. Hội đồng văn học dịch ở tổ chức nghề nghiệp của những người làm văn học chỉ có tác dụng nếu nó tạo nên được sự đánh giá đúng về chất lượng các bản dịch và những người dịch, giúp đỡ những người tâm huyết với công việc dịch văn học.  Còn không, đó chỉ là nơi ngồi cho những ai nghĩ rằng mình có quyền gì đó đối với các tác phẩm văn học dịch nhưng thực ra lại chỉ là “hữu danh vô thực” mà thôi... Phần lớn người dịch hiện nay đều làm theo sở thích của họ. Một số người dịch thơ thông qua đại sứ quán nhằm mục đích truyền bá văn hoá. Những tập thơ này, thường không đạt hiệu quả. Dịch thơ đôi khi còn nặng hơn làm thơ. Nó phải “diễn” tâm trạng người khác, vừa được giữ chất của mình. Dường như viết nhân vật đã khó, đóng nhân vật càng khó hơn. Hội đồng dịch cần phải đãi cát tìm vàng trong cái  mênh mông hỗn mang hiện nay.

6. Việc bản quyền làm nhiều người lo ngại. Phần lớn nhà thơ nước ngoài khi hay tin thơ của mình được dịch sang tiếng Việt sẽ không đòi tiền bản quyền. Vì bản quyền phải cân bằng với tỉ lệ thu nhập. Trong tình hình hiện nay, khó ai có thể thu lãi  nhờ việc bán thơ. Nếu như để in sách thì phải liên hệ với tác giả, còn dịch cho “vui” thì thôi. Không ai kết tội mình yêu thơ của mình. Tôi tin là họ sẽ hiểu và rất sung sướng khi người dịch thơ của mình hay. Đừng sợ công ước Berne mà chỉ sợ không dịch được thôi!
Nếu có điều kiện (đặc biệt dùng để tham khảo) thì nên in song ngữ là tốt nhất để người đọc biết được nguyên bản. Thực ra, dịch thơ là những phút ngẫu hứng trên chủ đề của nguyên bản. Ngay như, bản dịch Đợi anh về của nhà thơ Tố Hữu hay không phải là ông nhất nhất tuân thủ nguyên bản tiếng Nga vì ông dịch từ bản tiếng Pháp.

Nguồn: ANTG Cuối Tháng


Thơ dịch và Dịch thơ


Khoảng mươi mười lăm năm trở lại đây, nhờ xã hội trở nên cởi mở hơn nên sự giao lưu về đời sống tinh thần được gia tăng, sách dịch ngày càng đa dạng, càng nhiều. Nhưng trong cảnh phát triển xô bồ của đời sống hôm nay, không ít loại sách dịch bị giảm chất lượng, đặc biệt là sách văn học và nhất là thơ. Dường như, nhà xuất bản nào cũng để lọt sách dịch không đạt chất lượng, rất nhiều khâu bị lỗi. Ngay cả những nơi từng có uy tín cao nhưng bây giờ nhìn kỹ vào chất lượng sách dịch được in ra vẫn thấy gợn không ít sạn. Hơn nữa, xã hội hiện nay cũng đã trở nên cởi mở và tinh tường hơn đối với các dịch phẩm, khiến ngay cả những dịch giả nổi tiếng nhất khi công bố tác phẩm của mình cũng phải thận trọng vì dễ bị đối mặt với những khen chê rất khác nhau...



TẢN MẠN VỀ THƠ DỊCH

LA VĂN TIẾN

1. Tôi cũng không rõ là có nên dùng cụm từ “đội ngũ những người dịch văn học” hay không, bởi lẽ, phần đông những người dịch văn học hiện nay đều mạnh ai nấy làm, theo nhu cầu và năng lực cá nhân, manh mún, nhỏ lẻ. Dịch văn học không hẳn là chuyển ngữ. Đó là một sự sáng tác lại. Với thơ, 80% chất lượng phụ thuộc vào người dịch. Bất kỳ một nhà thơ trứ danh nào, nếu không “chọn” được người dịch khả dĩ thì đều có thể bị thất bại trong một ngôn ngữ khác. Không ít trường hợp dịch giả Việt Namđã “hạ sát” các thi nhân vĩ đại trên thế giới bằng tiếng Việt! Ngay những người có tên tuổi cũng làm “hàng” giả, đôi khi chỉ vì vô tình thôi, chỉ vì tài và tâm chỉ đến được mức độ ấy mà thôi. Thực sự là chúng ta không có những người thẩm định khách quan và sành điệu để đánh giá chuẩn xác về các tác phẩm văn học dịch. Nguyên nhân chính của hiện tượng này có lẽ là do quyền lợi “bầy đoàn”, cánh hẩu. Hoặc do sự hạn chế của chính những người cứ tưởng mình nắm chân lý trong tay như viên sỏi vậy... Tình hình trên quả thực đã ảnh hưởng không tốt đến văn học dịch, không nhiều người hiện nay dịch sách xuất phát từ khát khao cống hiến, khát khao góp phần bồi bổ những tinh hoa của văn học thế giới cho văn học quốc nội. Lớp trẻ hiện nay cũng có không ít tên tuổi nổi lên, nhưng nhìn chung, cũng không tạo được thành đội ngũ. Nói một cách công bằng, có những người trẻ dịch văn học chẳng thua gì các lớp cha chú, thậm chí còn hơn, nhưng vẫn bị “xoa đầu”. Thành ra họ nhảy ra ngoài cuộc chơi mà tham dự chủ yếu chỉ là những uy tín, lắm khi chỉ là “vang bóng một thời” mà thôi. Và vì thế, chúng ta không có sự kế thừa...
2. Một thời khá dài, thơ Nga cổ điển và thơ Nga Xôviết đã làm chủ “diễn đàn văn học dịch” ở ta. Đó cũng là điều hay, nhưng có lẽ chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được thế là may hay rủi. Cần biết chấp nhận thực tế như nó đã xảy ra. Một điều cần nói là, cho tới hôm nay vẫn chưa có ai đánh giá được đúng và đủ về chất lượng các bản dịch thơ tiếng Nga ra tiếng Việt như thế nào. Liệu chúng ta đã dựng được một nền thơ Nga đúng tầm với họ  bằng tiếng Việt hay chưa?
Tất nhiên, chẳng ai dại gì vạch áo cho người xem lưng, nên mọi sự đánh giá đến nay chỉ là cảm tính mà thôi. Sự thật thì không ít những bản dịch đã “ám sát” thi nhân nước ngoài bằng tiếng Việt. Tôi xin nhắc lại, hình như việc dịch thơ ở Việt Namđều là tự phát. Trong một nền kinh tế manh mún và nhỏ lẻ, đó cũng là điều đáng hoan nghênh vì chính nhờ lao động đầy ngẫu hứng và tình yêu cá nhân ấy mà chúng ta đã tạo nên được những ấn tượng nhất định trong lòng công chúng về thi ca thế giới. Nhưng chúng ta hầu như chưa làm được mấy việc để tạo dựng lại diện mạo những nền thơ lớn trên thế giới bằng tiếng Việt. Ngoại lệ có lẽ chỉ là thơ Đường! Thời gian qua, Nhà sách Đông Tây đã rất cố gắng để làm việc này, nhưng theo tôi, lực bất tòng tâm, hiệu quả đạt được chưa như mong đợi.
Hiện nay một số người có xu hướng lăng xê một số tác giả tiền phong của thơ Mỹ nói riêng và thơ phương Tây nói chung, coi như những ngọn cờ cần noi theo. Tôi thấy mọi sự hơi buồn cười... 
3. Rất khó dựng một nhà thơ nước ngoài bằng tiếng Việt ở mức độ tương đương với họ. Mỗi dân tộc hãy tự  “chăm lo” cho mình. Thơ có tính khu biệt khủng khiếp. Thơ phụ thuộc một cách cốt tử vào ngôn ngữ mà nó được viết ra. Mỗi đất nước, mỗi dân tộc đều có cách hình dung về thơ khác nhau. Bản thân mỗi một nhà thơ cũng có cách nhìn nhận riêng của mình về tính hiện đại trong thơ. Thơ không bao giờ là sự sáng tạo bầy đoàn. Tuyệt đối hóa một xu thế thơ như thể đó là duy nhất đúng bao giờ cũng là việc có hại cho sáng tác. Chúng ta không có nghĩa vụ coi bất cứ uy tín  ngoại lai nào là chuẩn mực. Mỗi dân tộc đều có bản sắc thơ riêng của mình... Mỗi nhà thơ cần có tiếng nói, dù nhỏ nhẹ, nhưng là riêng của cá nhân mình...
Tôi nghĩ là không thể dịch thơ “một trùng một” về ngữ nghĩa được. Có người đã từng khoe rằng họ dịch thơ nước ngoài sang tiếng Việt tới mức giữ được cả nhịp điệu, số lượng từ trong câu... Thật hoang tưởng, làm gì có chuyện ấy khi mỗi một ngôn ngữ có một kiểu hành văn khác nhau. Dịch thơ là phải đồng điệu tâm hồn với tác giả. Mình phải “lên đồng” cùng với tác giả. Dịch thơ không thể làm “cơ khí” được. Bởi thơ hay ở hồn vía. Nó hay ở cách tập hợp từ, liên kết từ, ở ngữ nghĩa của từng từ một, ở khoảng giữa các từ ấy.
Những người “tung” như vậy không hiểu về đối tượng mình viết. Ở Việt Namhiện nay đang có những nhà thơ với vốn ngoại ngữ tốt và từng có điều kiện tiếp xúc sâu với một số nền thơ nước ngoài nên dễ bị mang tiếng là chịu ảnh hưởng của những nền thơ đó. Tuy nhiên, sự thật cũng không hẳn như vậy, thậm chí là không phải như vậy. Ai biết thế nào là chất thơ Mỹ La tinh hay chất thơ Nga?! Cần phải thấy rằng, các nhà thơ ở Mỹ La tinh cũng như các nhà thơ Nga rất khác nhau. Mỗi một nhà thơ lớn là một thế giới, làm gì có cái gọi là chất Mỹ La tinh hay chất Nga chung chung ấy được? Hơn nữa, không một nhà thơ nào có thể quên được văn hoá của tổ tiên đến mức chịu ảnh hưởng của thơ nước ngoài. Mỗi một nhà thơ là một thế giới riêng thu nhỏ, nó khác nhau khủng khiếp...
4. Không có nền văn học hiện đại nào mà  chúng ta phải nhắm mắt đi theo cả. Bắt chước hay học đòi tân tiến là rất gây phản cảm. Làm thế chỉ là tuân theo một sự nô lệ kiểu mới, rất có hại cho đất nước. Đấy là chưa kể rằng, việc lăng xê một số tác giả thời thượng nước ngoài hiện nay là hoàn toàn vì mục đích thương mại. Trong quá khứ, chúng ta đã bị sai lầm khi thần tượng hoá một số người mà lẽ ra chỉ đáng để “tham khảo” chứ không phải để sao chép.
Thơ khi đã được dịch sang tiếng Việt là để cho người Việt đọc. Nếu như bảo đó là không phải Việt hoá thì rất buồn cười. Trong quá trình dịch, dịch giả càng giỏi thì giữ được đặc tính và bản sắc của nguyên bản ở mức độ cao nhưng thực ra, dịch sang tiếng Việt là đã Việt hoá rồi. Mỗi một từ của nước ngoài là một điển tích trong ngôn ngữ ấy, đưa sang thứ tiếng khác là khác đi vô số tình tiết rồi. Đặt vấn đề Việt hoá hay không là rất tầm phào. 

5. Hội đồng văn học dịch ở tổ chức nghề nghiệp của những người làm văn học chỉ có tác dụng nếu nó tạo nên được sự đánh giá đúng về chất lượng các bản dịch và những người dịch, giúp đỡ những người tâm huyết với công việc dịch văn học.  Còn không, đó chỉ là nơi ngồi cho những ai nghĩ rằng mình có quyền gì đó đối với các tác phẩm văn học dịch nhưng thực ra lại chỉ là “hữu danh vô thực” mà thôi... Phần lớn người dịch hiện nay đều làm theo sở thích của họ. Một số người dịch thơ thông qua đại sứ quán nhằm mục đích truyền bá văn hoá. Những tập thơ này, thường không đạt hiệu quả. Dịch thơ đôi khi còn nặng hơn làm thơ. Nó phải “diễn” tâm trạng người khác, vừa được giữ chất của mình. Dường như viết nhân vật đã khó, đóng nhân vật càng khó hơn. Hội đồng dịch cần phải đãi cát tìm vàng trong cái  mênh mông hỗn mang hiện nay.

6. Việc bản quyền làm nhiều người lo ngại. Phần lớn nhà thơ nước ngoài khi hay tin thơ của mình được dịch sang tiếng Việt sẽ không đòi tiền bản quyền. Vì bản quyền phải cân bằng với tỉ lệ thu nhập. Trong tình hình hiện nay, khó ai có thể thu lãi  nhờ việc bán thơ. Nếu như để in sách thì phải liên hệ với tác giả, còn dịch cho “vui” thì thôi. Không ai kết tội mình yêu thơ của mình. Tôi tin là họ sẽ hiểu và rất sung sướng khi người dịch thơ của mình hay. Đừng sợ công ước Berne mà chỉ sợ không dịch được thôi!
Nếu có điều kiện (đặc biệt dùng để tham khảo) thì nên in song ngữ là tốt nhất để người đọc biết được nguyên bản. Thực ra, dịch thơ là những phút ngẫu hứng trên chủ đề của nguyên bản. Ngay như, bản dịch Đợi anh về của nhà thơ Tố Hữu hay không phải là ông nhất nhất tuân thủ nguyên bản tiếng Nga vì ông dịch từ bản tiếng Pháp.

Nguồn: ANTG Cuối Tháng


Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012

NGUYỄN TÙNG LINH phía Biển Mùa Đông


Thơ Nguyễn Tùng Linh đã không ngừng mở rộng biên độ cảm xúc, vượt qua những “phên giậu” chật hẹp để hòa vào cõi nhân sinh rộng lớn. Vì nỗ lực theo hướng ấy nên thơ Nguyễn Tùng Linh thoát khỏi một định nghĩa hạn hẹp theo đề tài “Thơ công nhân”, “Thơ lao động sản xuất”. Trong Biển mùa đông độc giả vui mừng thấy Nguyễn Tùng Linh đã từ sông tiến ra biển cả mênh mông, đã từng đi trên con thuyền gỗ nay chễm chệ trên những con tàu sắt xông pha trên sóng nước đại dương bao la. Đó là một sự cởi mở của đời sống và thi ca của một nhân cách trưởng thành. Đó là sự mở rộng không gian nghệ thuật thơ và mở rộng tâm hồn nhà thơ. Đó là một nguồn cảm xúc lớn rất cần cho thi ca muôn thuở. Vì thế mà độc giả không nhận ra, không nhìn thấy sự “chưa đau đã kêu”, “chưa buồn đã than thở” trong thơ Nguyễn Tùng Linh. Ưu điểm này tạo cho giọng thơ Nguyễn Tùng Linh trẻ, khỏe, hào phóng và trung thực

Tự bạch bằng thơ qua “Biển mùa đông”
(Tập thơ của Nguyễn Tùng Linh, NXB Lao động, H., 2012)

BÙI VIỆT THẮNG

1. 
Tự bạch là bài thơ được đánh số 66 thuộc phần II (Biến Điệu) trong tổng số 128 bài thơ của tập thơ mới nhất Biển mùa đông (2012) của Nguyễn Tùng Linh. Với riêng tôi, Biển mùa đông như là một tuyển tập thơ đầy đặn của một đời thơ, nghiệp thơ Nguyễn Tùng Linh (là vì dõi theo năm tháng sáng tác sẽ thấy có bài thơ như Những bông hoa trên bờ biển cát - được viết năm 1970, lúc hai mươi tư tuổi và bài thơ “mới toanh” Tự bạch được viết năm 2012, khi nhà thơ miền Hoa Phượng Đỏ đã ngoại lục tuần). Có thể nói 128 bài thơ trong Biển mùa đông là những gì nhà thơ chắt chiu được của hơn ba mươi năm cầm bút, mỗi bài thơ là một cột mốc đời người và nghiệp thơ Nguyễn Tùng Linh. Khi đã ở tuổi ngoại lục tuần nhà thơ mới khiêm nhường đưa ra một tuyên ngôn thơ: “Nếu tôi có một mảnh vườn nho nhỏ/ Tôi sẽ trồng cây và không làm thơ/ Tôi chỉ viết trong lúc mình chờ đợi/ Gom nhặt đủ tiền để mua mảnh vườn kia”. Tôi gọi đó là “tuyên ngôn thơ” Nguyễn Tùng Linh, tại sao không, khi một cá nhân nhà thơ chứ không phải một văn phái có thẩm quyền ra tuyên ngôn nghệ thuật của riêng mình?!    

2.
Thơ Nguyễn Tùng Linh, theo tôi, cất cánh từ trong cuộc đời lao động ở một vùng đất giàu truyền thống nghệ thuật - Hải Phòng. Anh có thơ đăng báo từ những ngày còn là công nhân (sau đó là cán bộ kĩ thuật) ở các công trường, xí nghiệp ngành xây dựng Hải Phòng. Và Hải Phòng lại là thành phố cửa biển, nên rất tự nhiên trong thơ Nguyễn Tùng Linh không chỉ có ánh lửa hàn, tiếng búa, tiếng dồn toa của những đoàn tàu chở đầy hàng mà còn rất nhiều sông nước, biển cả. Hình như biển là một ám ảnh và là một không gian gợi thi hứng, gợi thi tứ cho Nguyễn Tùng Linh. Độc giả hãy theo dõi sự xuất hiện của một loạt bài trong tập thơ Biển mùa đông gắn với sông nước, biển cả: Tình yêu Nha Trang (1985), Những bông hoa trên bờ biển cát (1970), Những ngọn đèn cửa sông (1985), Biển (1980), Nha Trang mùa thu (1986), Kéo lưới đêm cùng những người đánh cá (1985), Thị xã của những người đánh cá (1981), Biển mùa đông I (2004), Bất chợt Tuy Hòa (2007), Biển mùa đông II (2004), Trăng sông Cấm (1991), Mùa bão, anh đi về phía biển (1988)… Phải chăng Nguyễn Tùng Linh là “tình nhân” của sông nước, biển cả?! Rất có thể như thế vì thơ viết về sông nước, biển cả của anh phóng khoáng và hào hiệp “Chiều nay Tôi và Biển/ Với Em phút giao mùa” (Nha Trang mùa thu). Rất có thể như thế vì “mối tình si” của Nguyễn Tùng Linh với sông nước, biển cả mà ngôn từ thơ anh rộng rãi, mở lòng, sẵn sàng sẻ chia tâm sự “Không phải mùa hè nồng nã/ Căng đầy như ngực gái mười lăm/ Biển mùa đông như mắt người đàn bà góa/ Có nỗi khát khao bỏ quên” (Biển mùa đông I).  

3.
Những bài ca lao động như là một phần thơ máu thịt của Nguyễn Tùng Linh trong Biển mùa đông. Bài thơ Giữa tháng Năm nghe tin gió mùa Đông Bắc (1982) được viết  bằng một cảm xúc thẳng băng và thành thật “Giữa tháng Năm nghe tin gió mùa Đông Bắc/ Và thế là suốt đêm không ngủ được/ Tôi trở dậy thắp một ngọn đèn dầu/ Trang giấy trắng như cùng tôi thức”. Nhà thơ trước trang giấy trắng khác nào trước “pháp trường trắng” bỗng cảm thấy day dứt “Trang giấy trắng bời bời bao tâm sự/ Chữ ngổn ngang như đồng đất mới cày/ Thơ đã gieo, hẹn đến mùa gặt hái/ Khi trong lòng gió lạnh đã xa xôi”. Đi lên từ một người thợ, đi lên từ lao động nên trong thơ Nguyễn Tùng Linh chứa chất nhiều suy tư, tâm tưởng về tình người trong lao động để tồn tại và đồng thời lao động để sáng tạo. Niềm vui sống và niềm vui lao động chan chứa trong thơ Nguyễn Tùng Linh. Một loạt bài thơ viết về con người lao động chân phương và vẻ đẹp giản dị của lao động cả trong hai ý nghĩa của nó: Gửi em và thị xã than (1975 - 1982), Những em bé ở mỏ Cao Sơn (1986), Những ngọn đèn cửa sông (1985), Thơ viết trên cánh đồng ngập nước (1980), Những câu thơ trần mình trong bụi (1982), Cô gái Ê - Đê đi làm thủy lợi (1985), Mùa trảy lê (1976), Kéo lưới đêm cùng những người đánh cá(1985), Viết tặng những người tuần đường (1986), Thị xã của những người đánh cá (1981), Thung lũng và những quầng bụi đỏ (1978)… Là người sống giữa đời thường, biết lắng nghe mọi cung bậc âm thanh của đời sống nên thơ Nguyễn Tùng Linh có cái ưu thế của chất sống dồi dào, nếu có thể nói là “ròng ròng sự sống”, tránh được lối véo von, màu mè của những người viết được một số bài thơ sau một chuyến đi thực tế dài, ngắn về một một vùng miền nào đó của đất nước. Nếu trong ngành giáo dục có những “giáo viên cắm bản”, âm thầm hi sinh để gieo con chữ trên vùng cao thì Nguyễn Tùng Linh, theo tôi, là “nhà thơ cắm chốt” vào đời sống lao động của nhân quần ở một vùng đất rất đặc trưng - Hải Phòng -  một thành phố đã đi vào thi ca như một giai thoại “Cái thành phố ăn nằm với biển/ Đẻ ra rất nhiều người cần lao”!? Trong số những bài thơ mà Nguyễn Tùng Linh từng tự nhận là mình đã “nằm lòng” nơi gợi thi hứng, thi tứ thì Những bông hoa trên bờ biển cát được viết ra trong sự run bật cảm xúc, một cảm xúc ở độ chín cao và tạo liên tưởng sâu xa “Những cô gái từ đâu trở về/ Nở trên cát những nụ cười rất trẻ/ Nụ cười đánh thức ngàn năm cát ngủ/ Bàn tay tung tóe mặt trời buổi trưa”. Ai đã một lần đến với những diêm dân lầm than để thấy hết bao gian nan vất vả của họ làm nên hạt muối mặn mòi vị đời, ai đã một lần đứng giữa cánh đồng muối một buổi trưa chói chang nắng thì mới cảm nhận hết cái hình ảnh vừa thực vừa ảo “bàn tay tung tóe mặt trời buổi trưa”. Nếu nói không quá thì Nguyễn Tùng Linh là người đầu tiên, lần đầu tiên trong thơ tạo nên một loài hoa mới - hoa muối: “Một sớm mai mặt trời đến - sững sờ/ Gặp những bông hoa trắng ngời trên cát/ Những cánh muối xòe ra từ lòng biển”

4.
Thơ Nguyễn Tùng Linh đã không ngừng mở rộng biên độ cảm xúc, vượt qua những “phên giậu” chật hẹp để hòa vào cõi nhân sinh rộng lớn. Vì nỗ lực theo hướng ấy nên thơ Nguyễn Tùng Linh thoát khỏi một định nghĩa hạn hẹp theo đề tài “Thơ công nhân”, “Thơ lao động sản xuất”. Trong Biển mùa đông độc giả vui mừng thấy Nguyễn Tùng Linh đã từ sông tiến ra biển cả mênh mông, đã từng đi trên con thuyền gỗ nay chễm chệ trên những con tàu sắt xông pha trên sóng nước đại dương bao la. Đó là một sự cởi mở của đời sống và thi ca của một nhân cách trưởng thành. Đó là sự mở rộng không gian nghệ thuật thơ và mở rộng tâm hồn nhà thơ. Đó là một nguồn cảm xúc lớn rất cần cho thi ca muôn thuở. Vì thế mà độc giả không nhận ra, không nhìn thấy sự “chưa đau đã kêu”, “chưa buồn đã than thở” trong thơ Nguyễn Tùng Linh. Ưu điểm này tạo cho giọng thơ Nguyễn Tùng Linh trẻ, khỏe, hào phóng và trung thực. Một loạt bài thơ gây ấn tượng về sự trưởng thành đáng mừng này: Trở lại mùa hè (1986), Không đề I (2004), Nhớ và quên(2012), Vạn lý Trường Thành (2005), Viếng đền thờ Lý Ban (2005), Cố cung (2005), Viết ở đền thờ các nhân vật Tam Quốc (2005), Một trái tim cao cả (1985-2005), Ngày cuối (1980), Thăm chùa (1992), Khúc mùa thu (2005), Truyền thuyết về bông hoa bất tử (1979), Với nhà văn Nguyên Hồng (1982 - 1987), Mẹ và ngôi mộ gió (2011), Cây bàng bên cửa sổ (1983), Nhà thơ và bạo chúa (2000), Luật yêu (1980), Biển mùa đông I (2004), Biển mùa đông II (2004), Đêm Ai Cập (2004), Đêm Tố Như (1988), Tự bạch (2012)… Trong thơ Nguyễn Tùng Linh có triết lí nhưng rất may mắn cho độc giả yêu thơ anh là tác giả không rơi vào suy lí và tư biện như thường thấy ở một số cây bút muốn tạo dáng trong văn chương hiện nay. 
        
5.
Xét riêng về câu chữ, thơ Nguyễn Tùng Linh không phải là một hiện tượng bùng nổ ngôn từ, và tác giả không phải là người tạo nên những “lớp sóng ngôn từ” kiểu như một vài nhà thơ thế hệ 8X. Thơ anh nếu neo lại được trong ký ức độc giả thường là nhờ vào hai yếu tố cơ bản: tình cảm chân thành, mãnh liệt của chủ thể sáng tạo và ý thức tìm tòi “tứ” cho thơ ca. Người ta nói nhiều về các chiêu thức và kĩ thuật sáng tác văn chương, đặc biệt là thơ ca, nhưng không ai có thể phủ nhận “quy luật của nghệ thuật là quy luật của tình cảm”. Thế hệ như Nguyễn Tùng Linh dù viết thể loại nào cũng đều giống nhau ở chỗ không bao giờ coi văn chương là một “trò chơi vô tăm tích” (thực ra đấy là một thứ “triết lí vặt” theo cách diễn của nhà văn Hoàng Ngọc Hiến mà một lần tôi đã đọc được ở đâu đó). Tôi nhận thấy Nguyễn Tùng Linh viết thơ có tình. Trong bài Đêm ngủ Giã (1986), nhà thơ đã bộc bạch cảm xúc nhiệt thành của mình trước sự sống không bao giờ chán nản của những con người lao động ở một xóm chài bé nhỏ ở miền Trung. Bài thơ kết thúc bằng những câu thơ ấm áp tình người trong lao động và từ đó nẩy bật lên cái tứ thơ: “Bầy trẻ chạy ùa ra - những gót chân của bình minh/ Tôi tất tả cùng dân làng ra bến/ Ghé vai khênh những lồ cá nặng/ Giã một đêm. Tôi nhớ suốt đời mình”. Nếu chú ý quan sát thì độc giả sẽ nhận ra một kiểu ngôn ngữ thơ rất gần với đời sống khi nhà thơ chỉ ngủ lại một đêm ở một làng vạn chài mà thấm thía, thấu hiểu đến tường tận cả những cái “lồ” trĩu nặng cá tươi (Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển -  Ngôn ngữ, Hà Nội, 1992, giải thích: “Lồ: Đồ đựng đan bằng mây, tre, giống cái bồ, cái sọt, nhưng thưa mắt). Trong cảnh tưng bừng đánh bắt được những mẻ cá lớn của ngư dân làng Giã, nhà thơ bỗng cảm thấy mình cũng là một trong cộng đồng lao động vất vả mà vinh quang, nên cùng hiệp sức “Ghé vai khênh những lồ cá nặng”. Một đêm bằng cả một đời để nhận chân sự thật, nhận chân cái đẹp của con người lao động. Đọc thơ Nguyễn Tùng Linh, tự nhiên trong tôi dấy lên niềm vui sống, niềm vui khi nhận ra sự gặp gỡ giữa thơ ca và đời sống của nhân dân lao động, một nhân dân bao đời nay “Gươm một tay, cày một tay/ Đời nhân dân muôn nỗi đắng cay” (S. Pêtôfi). Trong bài thơ Gửi em và thị xã than (1975 - 1982) có những câu thơ giản dị như lời ăn tiếng nói hàng ngày của con người “Và Hòn Than - nỗi ràng rịt chúng mình cùng thị xã/ Nỗi ràng rịt thị xã với trăm nơi” (Từ điển tiếng Việt, 1992, giải thích: “Ràng rịt: Buộc nhiều vòng chằng chéo”). Độc giả có thể tìm thấy nhiều từ ngữ được nhà thơ sử dụng một cách đắc địa như chúng tôi vừa dẫn giải và phân tích ở trên.    
Tuy nhiên như một lẽ thường tình, đôi khi Nguyễn Tùng Linh cũng bộc lộ cái “gót chân Asin” của mình trong thơ. Đó là khi anh không tiết chế được cảm xúc trào dâng thành ra “lộng ngữ” (chơi chữ) kiểu như “Xin thêm một lần nhớ những điều muốn quên/ Để được mãi quên đi những điều mình vừa nhớ” (Nhớ và quên, 2012). Một đôi chỗ “tính chất khẩu hiệu” đã làm giảm cái mà chúng ta vẫn gọi là “mỹ cảm” trong thơ, kiểu như “Sự thật đắng cay. Sự thật chẳng ngọt ngào/ Và vì thế từng nhiều phen sấp mặt/ Sự thật đi qua những khúc quanh, vượt bao ghềnh thác/ Có nhiều khi chìm hút đáy sâu/ Đấy là lúc bạo lực nhân danh cái thiện để thực thi cái ác/ Bạo lực khoác áo thánh thần để tính chuyện nhớp nhơ” (Với Paxtecnăc, 1987). Tôi cứ nghĩ một cách giản dị, nếu trong tay chúng ta có một thúng gạo ngon, nhưng đừng vội nghĩ là nó không hề có sạn. Nhặt ra vài ba “hạt sạn” trong thơ Nguyễn Tùng Linh, như tôi vừa làm, ai dám nói là muốn “hạ bệ” thơ anh?! Trái lại để thấy “nhân bất thập toàn”, và  đặc biệt với nghệ thuật thơ ca, là một thử thách khó khăn nhất đối với nhà thơ khi nắm trong tay thứ vũ khí lợi hại nhất - ngôn từ - trong giao hòa, giao cảm giữa người với người. 
Nguyễn Tùng Linh cũng viết văn xuôi (anh sở hữu một tập truyện ngắn Con trai người thắp đèn cửa sông, 1985), nhưng công bằng mà nói không nhiều tiếng vang trên văn đàn đương đại Việt Nam. Nhưng có hề chi như lời dạy của cổ nhân “Nhất nghệ tinh nhất thân vinh”. Tôi nghĩ, Nguyễn Tùng Linh cứ sáng tác thơ, cứ đắm đuối với thơ, cứ như một “tình nhân” của Nàng Thơ, ắt sẽ còn nhận được nhiều đền đáp xứng đáng hơn, sự đền đáp trước tiên ở số đông độc giả yêu thơ anh.

Thứ Tư, 19 tháng 12, 2012

NGUYỄN SỸ ĐẠI đọc thơ BÙI KIM ANH

“Đi tìm đi giấc mơ” (NXB Hội Nhà văn, 2012) là tập thơ thứ 9 của nhà thơ Bùi Kim Anh, kể từ sau tập đầu tiên “Viết cho mình” năm 1995. Ngỡ thơ chỉ là làm vui lúc “nông nhàn”thế mà cứ đeo đẳng mãi, nó trở thành duyên nghiệp hơn nghề giáo của cô giáo dạy Văn Trường THPT Hoàn Kiếm – Trần Phú Hà Nội. Với một người đàn bà phải chất trên đôi vai mỏng mảnh của mình trăm gánh lo toan, sức viết như vậy, tập nào cũng ghi dấu cái mới, quả đáng khâm phục! Trong tập này, chị tự giới thiệu về mình như thế này: “Có một người đàn bà ngồi trước trang báo mạng/ Tìm ngày xưa như chưa có ngày xưa"





TRÂN TRỌNG CÁI TÔI VÀ HIỆN TẠI

NGUYỄN SỸ ĐẠI

Theo những giấc mơ của chị, hầu hết là trở về miền xưa, ta thấy bao nhiêu “mùa con gái” trinh trắng sân trường, trong những hoa tím, hoa vàng, sự ấm của nắng, sự thênh thang của gió, sự hào hoa, thánh thiện của những người bạn bên lòng hay đi ngang qua cuộc đời. Cái đẹp, và cả “sự dại khờ” thường gây tiếc nuối. Đó là chỗ chị gây xúc động cho người đọc, chị phác họa về “thời thiếu nữ xa xôi” của mình một chân dung đẹp.
Còn trong hiện tại, chị là ai? Nếu chỉ “đoán định” qua một tập thơ nhỏ này thì khó có thể chính xác. Cho nên tôi chỉ có cảm giác. Trước hết chị sắc sảo hơn trong đời, trong nghề. Luận về chữ ký trong bài Tự sự về tôi là một ví dụ:
buộc phải ký khi lòng không muốn ký
ký để nhận điều không muốn nhận
ký để xa nơi không muốn xa
ký để rồi ta không là ta…
Lượng từ, chất liệu thơ mới mẻ hơn. Hiện đại trong cách dùng từ, trong kết cấu ngữ pháp… điều mà không phải ai ở thế hệ chị, cả thế hệ @ nữa có thể viết được:
cửa sắt khẳng khiu khép hờ
người nghệ sĩ đi cho vườn đêm ngủ trong hoang vắng
khe của những tranh tượng chờ
và em tận hưởng khoảng đêm nghệ thuật
và đêm ý tưởng đêm lang thang giấc mơ hoang.
(Đêm của mimosa)
Tuy nhiên, tôi vẫn muốn tìm con người xưa trong chị. Đó là con người giản dị, cảm xúc tươi vui, khi rạo rực, khi ”dại khờ” - chữ dùng của chị, nhưng xanh non và mạnh mẽ như cỏ. Chị bây giờ biểu hiện mình như một người đúng mực, chuẩn tắc May mà tôi vẫn là tôi, Cơm ăn đủ bát đứng ngồi đúng nơi; có khi thấm mệt mỏi trường đời, tuổi tác:
em đã mỏi rồi dẫu nhuộm tóc thời gian
mơ ước hay chỉ là hoang tưởng…
không thể dối long không nuối tiếc
khắc tình yêu và bát hạnh vào tấm bia ký ức
Thế giới thơ chị đem đến qua tập Đi tìm đi giấc mơ là một thế giới nhọc nhằn, khắc khoải. Nên hay không nên là chuyện không được bàn. “Người thơ phong vận như thơ ấy”, thì tạng ấy, đường ấy mà đi. Nhưng trong tập này cũng nhiều câu thơ lấp lánh ánh sáng ngày xưa:
bập bẹ suốt đời tình yêu tổ quốc
lời ca dao và những câu thơ hay
tổ quốc mênh mông tổ quốc thiêng liêng ta một hạt nhỏ nhoi
ta ở đâu khi những ngày xưa tổ quốc
ta ở đâu và biển và đảo và núi và rừng
tổ quốc cụ thể trong lòng tay
tổ quốc bí ẩn trong hầm sâu nghiêng trong lòng giếng
ta bập bẹ suốt đời tình yêu tổ quốc
đếm những lời tốt đẹp để tìm cho riêng mình định nghĩa thiêng liêng
(Lời giản đơn người thợ)
Dường như trong mọi giấc mơ của chị, không thấy giấc mơ nào đến từ tương lai. Mà đến từ ngày xưa. Nghĩa là chị tìm cái đẹp trong cái xưa. Trong ký ức của con người, ngày xưa thường vẫn đẹp. Càng về xưa, con người càng hồn nhiên, thiên nhiên hơn chăng? Ngày hôm nay rồi cũng về xưa, rồi cũng đẹp. Quan trọng hơn nữa, là những ngày chúng ta đang sống:
Những ngày chúng ta sống đây là những ngày đẹp hơn tất cả
Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn
Cụ Chế nói vậy mà sâu, mà đúng dù cái lô-gich thì nghe có vẻ không thuận những tai thường. Tôi mong mỗi người đều nhận thấy, đều quý yêu trân trọng ngày hôm nay. Và mong sao những giấc mơ của chị Bùi Kim Anh được ngọt ngào trong hiện tại. Và thơ đừng vì hai chữ hiện đại mà đi xa con người mình quá!

Thứ Ba, 18 tháng 12, 2012

LÊ VĂN NGĂN không bao giờ lớn tiếng


Ở Bình Định, nhà thơ Lê Văn Ngăn hay tiếp các nhà văn từ các nơi trong ngoài nước về. Kỷ niệm xưa ùa về trên từng góc phố Quy Nhơn, nơi những con người này, già trẻ khác nhau, nhưng đều quen thuộc từng gốc cây trứng cá, mùi nước mía, bánh xèo và bao nhiêu sự ồn ào của một vùng đô thị đối mặt với chiến tranh từ trước 30/4/1975. Vượt lên trên những ồn ào, họ đã có những trang viết đầy bản sắc về Quy Nhơn. Một bữa, đã "tê tê" mấy chén, Lê Văn Ngăn bỗng nói với tôi: "Mình nhớ quãng đời gian khổ mà tươi đẹp, ấy chính là... thời tán gái, thời mà bài thơ "Sóng vẫn đập vào eo biển" được phát trên Đài Phát thanh Giải phóng". Và "eo biển" này đích thị là cái Eo Nín Thở (Quy Nhơn) hồi xưa chủ yếu rác, bây giờ được cải tạo lại đẹp rồi. Mỗi lần cùng anh em bè bạn ra nhậu, Lê Văn Ngăn hay gọi là đi "ăn biển"... Bây giờ thì ông đã ngấp nghé tuổi 70. 


Nhà thơ Lê Văn Ngăn: Không bao giờ "lớn tiếng"

ĐÀO ĐỨC TUẤN

Tôi đồ rằng hai câu thơ "Từ đó tôi dành niềm tin/ Cho các nhà thơ không bao giờ lớn tiếng" có thể là một tuyên ngôn của nhà thơ Lê Văn Ngăn. Khá nổi tiếng trong làng văn nghệ miền Trung, nhưng "khai báo" trích ngang cuộc đời - tác phẩm trong các tuyển tập, ông cũng chỉ ngắn gọn "có những người bạn thân ở nhiều nơi trong nước"... Từng được xem như một nhà thơ "công thần" từ phong trào học sinh, sinh viên yêu nước trước 1975 tại Đà Lạt, bút lực luôn dồi dào nhưng ông chỉ in "công khai" duy nhất một tập thơ riêng. Sao thế nhỉ?

1.
Lê Văn Ngăn sinh năm 1944 ở làng Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên- Huế, hiện sống tại TP Quy Nhơn, Bình Định. Ông  là một tiếng thơ vừa vang dội, vừa lắng đọng trong phong trào học sinh - sinh viên yêu nước trong các đô thị miền Nam trước 1975. Về già, thơ ông vẫn "sung", vẫn tả xung hữu đột…
Mộc mạc như một lão nông vừa dưới quê lên, đi đâu ông cũng một xe đạp cà tàng, dáng đạp xe chả mệt chả khỏe, nửa chú ý nửa lơ đễnh; vẻ mặt nửa khắc khổ, nửa như chả gì quan trọng. Nói chung, ông... không thích xe máy.
Tôi đọc thơ Lê Văn Ngăn trong những ngày còn là sinh viên Đại học Đà Lạt. Ấy là những bài thơ ông "gởi cho đông vui" (như sau này ông tâm sự) dự thi thơ Tuần báo Văn Nghệ 1990 -1991 và sau đó đoạt giải nhì. Đây là một trong những giải thưởng hiếm hoi của ông "bị lộ diện". Ông bảo mình không thuộc tạng thích đem tác phẩm đi thi thố, kể cả in tập; trong lúc, thơ ông khá nổi tiếng với nhiều bạn đọc. Nhiều người hối thúc, sẵn sàng bỏ tiền tài trợ để ông in nhưng mãi đến khi bước sang tuổi 65, ông mới chịu cho in tập... công khai "Viết dưới bóng quê nhà" với 46 bài trong hàng ngàn thi phẩm của mình. Khi tôi hỏi về những tập thơ của ông mà đó đây vẫn nhắc, như "Vào một thời in bóng", "Thư về Hà Nội", "Trên đồng bằng", "Sóng vẫn đập vào eo biển", ông cười, thừa nhận: "Ừ, mình nhớ tập này có, tập kia... cũng có. Nhưng toàn là in "chui" thôi, nghĩa là dồn thơ lại, in roneo phát bạn bè đọc chơi...". Chính xác, nếu là thơ in có phép, ông chỉ có mỗi tập "Viết dưới bóng quê nhà".
"Già" Ngăn tặc lưỡi: "Thơ của thi sĩ thuộc về người đọc, thơ hay thơ dở chỉ cần "lộ" ra một tí là thiên hạ biết ngay! Chỉ cần in báo, in mấy tuyển chung với anh em… kiếm tí nhuận bút cà phê là đủ rồi". Bản tính lặng lẽ vẫn là dấu ấn lớn nhất của đời ông, khiêm nhường cả trong lúc… say! Giọng Huế rặt ri, dẫu gần trọn cuộc đời sống xa quê. Những dòng thơ xuôi theo tâm tưởng, không một chút vần vè nhưng đầy âm nhạc...
Nhà thơ Nguyễn Tường Văn, người sát cánh với Lê Văn Ngăn trong phong trào học sinh - sinh viên yêu nước tại Đà Lạt, nói: "Lê Văn Ngăn thực sự là một "huynh trưởng" trong những ngày đấu tranh cam go ở Đà Lạt. Những bài thơ rực lửa của anh trên các tờ Đối diện, Trình bày,… đã góp phần kích thích tinh thần yêu nước, sẵn sàng xả thân vì dân tộc ngay trong lòng đô thị luôn bị bố ráp của Mỹ - ngụy...".
Là người gần gũi Lê Văn Ngăn nhiều năm, nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng nhận xét: Thi sĩ họ Lê là một người hạnh phúc. Nhắc tên, anh em thường kèm theo hàng lô hàng lốc những giai thoại. Anh mây trời gió nước đến nỗi khi đi nhậu khuya về gọi cửa, anh quên mất tên bà xã mà gọi đích danh bà hàng xóm. Gặp nhà thơ X, anh mừng rỡ luống cuống bảo: "Trời ơi, lâu quá, giới thiệu với ông đây là nhà thơ Y" là chuyện hết sức bình thường.
Ông "nhầm" người vô hồi kỳ trận. Nhưng hình như có "luật nhân quả", người thân của ông cũng đã có lúc nhầm trở lại. Có lần ông về Huế, một người bạn làm nha sĩ nhìn cảnh ông "hàng tiền đạo bị thẻ đỏ", tức "lợi một bên mà răng một bên", thương tình tài trợ cho bộ răng giả xịn. Ông đáp tàu về Quy Nhơn định khoe với vợ trước tiên. Vợ ông ra mở cửa, nhìn răng miệng ông mới "tân trang", tưởng vị khách lạ nào, buột miệng: "Anh Ngăn về Huế chưa vô, có gì hôm khác anh lại!"....
Còn chuyện ông mê ngồi quán so tài xe - pháo - mã, sợ mất xe đạp nên chạy ra khóa nhầm xe người khác cũng là chuyện… thường. Chỉ có chuyện ông "sáng chế" ra bài thuốc trị bệnh dạ dày của mình bằng cách… uống bia, thì thật khó mà có ai dám áp dụng theo!

2.
Ở Bình Định, nhà thơ Lê Văn Ngăn hay tiếp các nhà văn từ các nơi trong ngoài nước về. Kỷ niệm xưa ùa về trên từng góc phố Quy Nhơn, nơi những con người này, già trẻ khác nhau, nhưng đều quen thuộc từng gốc cây trứng cá, mùi nước mía, bánh xèo và bao nhiêu sự ồn ào của một vùng đô thị đối mặt với chiến tranh từ trước 30/4/1975. Vượt lên trên những ồn ào, họ đã có những trang viết đầy bản sắc về Quy Nhơn. Một bữa, đã "tê tê" mấy chén, Lê Văn Ngăn bỗng nói với tôi: "Mình nhớ quãng đời gian khổ mà tươi đẹp, ấy chính là... thời tán gái, thời mà bài thơ "Sóng vẫn đập vào eo biển" được phát trên Đài Phát thanh Giải phóng". Và "eo biển" này đích thị là cái Eo Nín Thở (Quy Nhơn) hồi xưa chủ yếu rác, bây giờ được cải tạo lại đẹp rồi. Mỗi lần cùng anh em bè bạn ra nhậu, Lê Văn Ngăn hay gọi là đi "ăn biển"...
Bây giờ thì ông đã ngấp nghé tuổi 70. Vậy mà Rằm tháng Giêng vừa rồi ông đã đi cùng một số anh em văn nghệ, trong đó có tôi, trèo lên ngọn núi Đá Bia (Đèo Cả, Phú Yên) kỳ diệu. Ông không thích sự ồn ào, thà ai bắt ông ra tra tấn ông còn dễ chịu hơn bắt ông ra đọc thơ. Nhưng khi đã thương ai mến ai, thì việc rủ nhau trèo lên đỉnh cao 706 mét, hàng năm bảy tiếng đồng hồ vượt suối leo dốc, tuổi ngót nghét bảy mươi của ông cũng xem đó là việc xoàng. "Ghét thì một bước cũng không đi, nhưng quý mến nhau thì đèo dốc là chuyện nhỏ" - Ông nói vậy khi mái tóc bạc bồng bềnh trong mây.
Nếu hỏi Lê Văn Ngăn đang ở đâu, làm gì, giờ nào thì chỉ có Nguyễn Thanh Mừng rõ nhất. Hồi còn làm chung ở Hội Văn học, nghệ thuật Bình Định (Ngăn "phó", Mừng "trưởng"), hai ông này hay rủ nhau đi "trốn thơ". Là vì có quá nhiều vị khách tóc tai bù xù, sáng sớm đã trĩu hơi men, kẹp chai rượu và cuốn sổ thơ, tới đọc "bài mới làm hồi hôm, hay lắm..." tràng giang đại hải không có dấu hiệu dừng. Quá mất thì giờ, hai ông rủ rỉ tìm diệu kế. Sau này, hễ họ vào ngồi phòng Nguyễn Thanh Mừng thì năm mười phút sau có Lê Văn Ngăn gọi sang bảo lên Ủy ban... họp. Hễ họ vào phòng Lê Văn Ngăn thì cũng năm mười phút sau Nguyễn Thanh Mừng gọi lên Thành ủy... họp. Thực ra hai ông gọi "giải vây" cho nhau rồi ra quán tâm sự mọi thứ trên đời, trừ... thơ. Họ chỉ tâm đắc mỗi câu "Quy Nhơn thành phố thi ca/ Ăn cơm thì ít, bê-i-a (BIA) thì nhiều...".
Năm ngoái, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân tổ chức trại sáng tác ở Nha Trang. Bình Định được mời ba suất, gồm nhà thơ Lê Văn Ngăn, nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng và một người nữa. Sau đó họ rút lại còn hai suất. Ông Mừng xin rút để người thứ ba kia khỏi thắc mắc. Nhưng ông Ngăn chỉ muốn đi với ông Mừng. Chiều bạn già, ông Mừng để ông Ngăn và một nhà thơ khác dự trại Nha Trang, rồi nửa chừng trại, ông bí mật từ Quy Nhơn vô "cuỗm" đồng chí Lê Văn Ngăn lên Đà Lạt để cùng dự lễ khai mạc triển lãm của một người bạn chung của hai người: Nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng. Đi đâu họ cũng thích đi với nhau.

3.
Từ 20 năm trước, tôi đã thuộc làu bài "Quà tặng" của ông: "Anh gởi tặng em tiếng chuông đồng hồ điểm/ để ở hai nơi cách xa nhau, chúng ta cùng thức dậy giữa đêm khuya/ thầm hỏi về những tháng năm đã sống/ Hạnh phúc thường đến kèm theo những nỗi sợ hãi…". Còn một trong hai bài được trao giải Văn Nghệ là "Xa Đà Lạt" thì vẫn khiến ông day dứt: "Đà Lạt, nơi chứa đựng nhiều kỷ niệm sâu sắc, giờ nghĩ lại xấu hổ vì những điều mình nói trong thơ cho thấy mình chưa hiểu bao nhiêu về con người của miền đất ấy…". Thế là ông dứt khoát không đưa vào tập thơ "công khai".
Xuề xoà trong cuộc sống nhưng quá khắt khe trong sáng tạo; nặng lòng với người quen thân và những vùng đất đã qua đã làm nên một miền tương tư trong những việc làm, những cuộc hàn huyên của ông. Và rồi ông lao động chữ… Nói như dịch giả Dương Tường, người ta không thể "trở thành" nhà thơ - hoặc anh là thi sĩ, hoặc anh chẳng bao giờ là thi sĩ. Lê Văn Ngăn thuộc vào trường hợp chẳng bao giờ cố làm nhà thơ, bởi trong máu và cả đời ông là thi sĩ. 
Trò chuyện nhiều lần, mãi rồi Lê Văn Ngăn mới chịu "khai": Năm học đệ nhất (lớp 6 bây giờ) ông từng có thơ in trên Báo Phụ nữ Thứ bảy - Sài Gòn. 18 tuổi, ông viết bài "Người phu xe": "Cha đã lăn cho con những vòng xe / mồ hôi chảy xuống lấp lánh mặt trời/ đọ sức cùng thiên nhiên/ (…) Sao mà những nếp nhăn/ sao mà khuôn mặt héo…". Bài thơ này đã làm nhiều bạn bè của ông xúc động khôn xiết!
Thời sinh viên (khóa 3, năm 1964 - 1966) ở Trường Sư phạm Quy Nhơn, ông đã từng in ronéo tập thơ có tựa "Trên đồng bằng". Năm 1972, Đài Tiếng nói Việt Nam và Báo Văn nghệ phát đi bài thơ "Sóng vẫn đập vào eo biển", tờ Thống Nhất đăng bài "Đất của những người bất phục" khiến tên tuổi Lê Văn Ngăn được các kẻ sĩ Bắc Hà chia sẻ như một đồng chí trên cùng một chiến tuyến...
So với nhiều bạn bè tài hoa cùng thế hệ, tên tuổi Lê Văn Ngăn lặng lẽ hơn nhiều, nhưng cái lặng lẽ đổi mới để thành một giọng điệu lãng mạn đến tận cùng, hiện thực đến tận đáy, làm sắt se tâm hồn người đọc. Cảm nhận về Lê Văn Ngăn, tôi thấy ông là một người hiếm hoi "sống gì mình viết nấy" và ngược lại. Nói như nhà thơ Ngô Thế Oanh, "thơ Lê Văn Ngăn thấm vào ta những cảm xúc bao giờ cũng chân thực, chân thành và với một thứ nhạc điệu, nhịp điệu nội tại, nội tâm một nét rất riêng trong nghệ thuật thơ ca mà không dễ nhà thơ nào cũng có được. Một bản lĩnh thơ rất hiện đại nhưng xa được những lý thuyết ồn ào. Thơ Lê Văn Ngăn chính là con người, cuộc đời anh

Thứ Bảy, 15 tháng 12, 2012

HOÀNG VIỆT HẰNG xóa đi và không xóa


Hoàng Việt Hằng chú trọng đưa chất sống vào thơ, hút nhụy sống  từ nhiều  miền quê đất nước và vươn ra bên ngoài biên giới hy vọng đem lại màu mỡ cho thơ. Cứ nhìn vào các địa danh sẽ rõ: Thác Bờ, Sông Mã, Sông Mực, Bến En, Đục Khê, Đảo Dấu, Mẫu Sơn, Mường Lát, Tủa Chùa, Mường Lay, Buôn Đôn, Ngọa Vân… rồi Nậm Khan, Kỉu Mai Lo (Lào), Ăng Ko Thom (Cămpuchia), Pattaya (Thái Lan)… Các bài thơ là những phác thảo gọn và gợi. Tác giả đi nhiều, như là chạy trốn nhưng không thể trốn được cô đơn. “Trong lòng tôi/  người đàn bà bán vải/ mỗi tháng một phiên/ bóng lẻ về”


 
Xóa đi và không xóa
(Tập thơ của Hoàng Việt Hằng - Nxb Phụ nữ 2012)
MÃ GIANG LÂN
    Mấy năm nay, một cây bút nữ viết khỏe, xông xáo, ấy là Hoàng Việt Hằng. Cả thơ, tản văn, tiểu thuyết, khoảng 4 năm in đến 5 quyển. Tập thơ “Vệt trăng và cánh cửa” (2008) có nhiều bài hay xúc động, ám ảnh ngay từ tên bài: Đèn lẻ bóng, Những dấu lặng, Một mình khâu những lặng im, Ẩn ức… Có nhiều câu thật thương, thật xót xa: “Lấy chồng lấy cả nỗi đau của chồng… /Một mai góc biển chân trời/viết nuôi con lớn nên người mới xong/ một mai trăng sáng thong dong/mình em khâu những mùa đông đời mình”. “Chỉ chiêm bao em nán chờ anh về - lần… nữa/ chỉ nước mắt khô”. Nỗi đau thân phận, niềm cảm thông với những kiếp người thua thiệt, nghị lực sống làm nên phẩm chất của tập thơ.
“Xóa đi và không xóa” (2012) Hoàng Việt Hằng giữ được và tiếp tục mạch nguồn từ những tập thơ trước, mở mang thêm những vỉa tầng đời sống. Một điều xưa cũ nhưng lại luôn có ý nghĩa thẩm mỹ. Tác phẩm nghệ thuật nói gì và nói như thế nào. Tư tưởng và phương thức biểu hiện. Tư tưởng thoát lên từ đời sống, cách nhìn đời sống và phương thức biểu hiện nhờ ngôn ngữ. Ngôn ngữ tạo mô thức hình dáng, câu chữ, vắt dòng, hình ảnh, liên tưởng, vần điệu, nhịp điệp, giọng điệu… Và chính ở đây tư tưởng tác phẩm mới được hiện ra cụ thể sinh động. Có bước chân rộng, có tầm nhìn xa nhưng quan trọng là độ sâu tâm hồn.
Hoàng Việt Hằng chú trọng đưa chất sống vào thơ, hút nhụy sống  từ nhiều  miền quê đất nước và vươn ra bên ngoài biên giới hy vọng đem lại màu mỡ cho thơ. Cứ nhìn vào các địa danh sẽ rõ: Thác Bờ, Sông Mã, Sông Mực, Bến En, Đục Khê, Đảo Dấu, Mẫu Sơn, Mường Lát, Tủa Chùa, Mường Lay, Buôn Đôn, Ngọa Vân… rồi Nậm Khan, Kỉu Mai Lo (Lào), Ăng Ko Thom (Cămpuchia), Pattaya (Thái Lan)… Các bài thơ là những phác thảo gọn và gợi. Tác giả đi nhiều, như là chạy trốn nhưng không thể trốn được cô đơn. “Trong lòng tôi/  người đàn bà bán vải/ mỗi tháng một phiên/ bóng lẻ về” (Một lần đi chợ Đục Khê), “Theo dòng Thác Bờ/ nhìn hoa dại nở/mà thấy bơ vơ” (Tôi ơi), “Lên đến Tủa Chùa. Rồi xuống Mường Lay… /một mình vớt núi/ một mình vớt mây” (Đỉnh núi và bờ vực). Và trên đỉnh Rùng Rình “Tôi/ rêu phủ/ trượt ngã vào cô đơn”. Rất nhiều những chuyến đi lên rừng xuống biển, hết ngược lại xuôi, hòa với thiên nhiên, con người: người mẹ ở Buôn Đôn, người đàn bà đan cói ở Kim Sơn, người phụ nữ Việt ly hương và đơn độc ở đất nước người. Đi theo người Dao ở Mẫu Sơn,tìm cây thuốc mà chất  vấn cây thuốc không chữa được vết thương lòng người; hoặc thấy đứa trẻ bị bỏ hoang được người trồng ngưu tất cứu sống… Bao nhiêu con người, bấy nhiêu số phận, chẳng số phận nào may mắn hoặc ít ra được bình thường, được sống yên lành. Thì ra, tâm hồn nhạy cảm, đầy nhân ái của nhà thơ luôn hướng đến những cuộc đời cơ cực có cảnh ngộ đang cần sự quan tâm an ủi của mọi người của xã hội. Các bài thơ cứ như nói với mình, về mình nhưng lại là những lời nhắc nhở, khơi ngợi lương tâm đồng loại. Chất sống, tư tưởng của thơ là ở đấy.
    Có một số bài thơ, câu thơ Hoàng Việt Hằng muốn nâng lên thành những chiêm nghiệm, tăng thêm trí tuệ. Một tâm thế dùng dằng lựa chọn “Xóa đi và không xóa” làm bật lên một triết lý nhân sinh “ai đó sống suốt đời vì người khác/ đã tàn tro mà thời gian không tro tàn” “Muốn yên tĩnh/thôi ngước nhìn trăng cong. Muốn yên tĩnh / nước mắt chảy vào trong…” Cầu nguyện khi lên Ngọa Vân /nếu được xin người cho chữ tĩnh. Ra Đảo Dấu trước biển cả mênh mông /tôi chỉ một lần cúi xuống/ ra đây xin được thảnh thơi. Gặp vợ người thợ lò mất chồng /chị trẻ tới nỗi. bế con đeo khăn xô/tôi phải quay mặt đi. Một cử chỉ cao hơn bất kỳ một thái độ nào. Những câu thơ giản dị, không dấu vết gia công nghệ thuật mà lay động bởi độ sâu tâm hồn và đậm nữ tính.
   Nếu chỉ thế thôi, thì có khác gì, hơn gì thơ của nhiều người viết. Chất riêng thơ Hoàng Việt Hằng dồn vào những bài thơ dành cho thân phận mình, cho chồng con, nhất là khi viết về người chồng (một nhà văn) đã mất. Tình cảm vợ chồng âm dương cách trở là một tình cảm mạnh mẽ, đau đớn thương tâm. Muôn thuở vẫn thế. Và là nguồn đề tài đắc địa của thơ. Nhiều tác phẩm của các nữ sĩ xưa nay được người đời nhắc đến ghi rõ dấu ấn cá nhân và nỗi niềm riêng tư cảm động. Gần với chúng ta, nữ sĩ Tương Phố khóc chồng mỗi độ thu về. Tiếng thơ của bà thương nhớ, não nề. Tiếng thơ của nhà thơ nữ hôm nay buồn da diết mà cố gắng khuây khỏa. Dù sao cũng còn nhiều việc phải làm: nghề nghiệp, công tác xã hội, nuôi con ăn học.
Em đã gói kỷ niệm/gói giọt sương trên lá sen khô/gói cả anh và tình yêu hai ta xưa/nhưng gói mãi đến mùa xuân phải mở/cho nỗi buồn không héo khô(Dù em có dụi mắt)
     Vậy là cố quên nhưng không thể quên và nỗi buồn với nhà thơ lại là tài sản quý giá. Có thể nỗi buồn làm cho con người dễ nhận ra bản thể mình, dễ cảm thông chia sẻ với mọi cảnh ngộ và nhạy cảm với những biến thái của cuộc đời. Cứ thử xem từ một tâm thế buồn lại suy ra được bao điều sâu sắc. Nỗi buồn không khô héo thì sự nhận biết, nỗi niềm không bao giờ cũ. Nó lay gọi, gợi nhớ những kỷ niệm tươi nguyên với hiện tại xót xa. Bên hàng cây cơm nguội /ngày ấy anh ôm em/cây cũng trẻ /và cây nghiêng ngả/ bây giờ cây đã già/và anh trở về với đất. (Dấu ngã ở bên trời). Có lúc /em vừa viết thư cho anh/ gửi thế giới bên kia/viết xong xóa đi. Tình yêu nỗi nhớ da diết day trở không nguôi. Có bài thơ vần điệu, nhịp điệu như quên buồn để vui với tưởng tượng./như thể anh mới về/mắc lại cái dây phơi/để hong khô nước mắt/mắt ướt mà không khóc/lá vàng chan thu tàn/lá vàng vun đơn lẻ/trong những chiều tam quan(Mắt ướt).  Và anh về nói mỗi câu /mắt ướt này mắt ướt. Chỉ thế thôi, mong thế thôi nhưng /làm sao gặp nhau được/ dù chỉ là chiêm bao. Thì ra gặp được chồng ở thế giới bên kia trong chiêm bao cũng chỉ là ao ước.
Nỗi buồn tình yêu và rộng ra là nỗi buồn thân phận nhà thơ cứ tăng dần chìm lấp bởi mọi tình cảm khác. Nói với con: /lệch một bờ vai mẹ ngồi so trong đục… /tóc trắng trên đầu quên nhớ cũng như mưa. Thảng thốt giật mình khi ngồi gỡ tóc: /tóc trắng thế này sao. Lại từng trải, chiêm nghiệm /những nỗi đau hóa mây trắng cả rồi. (Lâu lắm rồi). Lên đỉnh Rùng Rình: /Tôi vấp ngã hết tuổi xuân / qua trưa /sang chiều”. Đến đâu cũng /chỉ mong sẽ không nghĩ ngợi/ lan man đau khổ kiếp người.
 (Ra đảo Dấu). Thật thương một con người đã đến mức rơi vào những hành động cử chỉ vẩn vơ: đôi khi ngồi đếm kiến bò / thấy mình không bằng con kiến.Và những vô cảm trước mọi nỗi đời /dửng dưng nghĩ mình không sống. (Thơ không đặt tên).  Đấy là những câu thơ gan ruột, đau buồn. Tâm hồn nhà thơ là một nam châm thu hút tất cả những rung động của cuộc đời của số phận riêng mình làm nên chất mật vừa đắng đót vừa dịu dàng. Đọc thơ ta như quên đi câu chữ nghệ thuật, chỉ thấy tâm hồn, cảm thông chia sẻ với một tâm hồn đa cảm, nhân ái. Đến đây tôi nhớ câu nói của A. Musset nhà thơ lớn nước Pháp: “Nghệ thuật chỉ làm ra được những câu thơ. Chính tâm hồn mới là thi sĩ”.
Ở trên tôi đã nói, thơ nữ hôm nay có buồn có đau. Không buồn đau sao được trước những mất mát không gì bù đắp được. Nhưng không bi lụy vì cuộc đời còn dài. Còn công việc còn bao lo toan trách nhiệm. Hoàng Việt Hằng ngoài làm thơ còn viết văn viết báo/ viết nuôi con lớn nên người. Đọc mà ứa nước mắt. Mấy ai sống bằng ngòi bút. Viết nuôi mình đã khó, lại nuôi con nữa, thật khó. Thế mà nhà thơ, một mình chị gắng gỏi làm được .