Chủ Nhật, 6 tháng 1, 2013

Hệ lụy đô thị hóa


Có không chỉ một cách định nghĩa về khái niệm đô thị hóa. Theo một số chuyên gia, đô thị hóa hay sự tăng trưởng vật lý của các khu vực đô thị là kết quả của quá trình dịch chuyển của các cư dân từ những vùng nông thôn vào thành phố. Một số chuyên gia khác cho rằng, đô thị hóa là quá trình nâng cao vai trò của các thành phố trong sự phát triển của xã hội. Điều kiện tiên quyết đô thị hóa - sự tăng trưởng trong các ngành công nghiệp đô thị, sự phát triển của các chức năng văn hóa và chính trị của họ, sâu sắc của sự phân chia lãnh thổ của lao động. Đối với quá trình đô thị hóa được đặc trưng bởi dòng dân số nông thôn và sự gia tăng con lắc di chuyển dân số từ môi trường nông thôn và các thị trấn nhỏ xung quanh các thành phố lớn vì những lý do khác nhau.


Hệ lụy đô thị hóa
KINH KHA

Mặc dầu thế giới hiện đại được coi là “nền văn minh đô thị lớn” nhưng những thành phố khổng lồ thực ra vẫn còn là hiện tượng lạ lẫm đối với nhân loại. Trong phần lớn lịch sử của mình, nhân loại chủ yếu chỉ sống ở những vùng nông thôn và làm nông nghiệp. Giờ đây con người đang lao vào giai đoạn đô thị hóa quá khẩn trương và không ai dám nói chắc về những ảnh hưởng của xu thế này đối với tương lai của nền văn minh.
Lịch sử các thành phố
Một điều đáng lưu ý là, cho tới hôm nay trên thế giới vẫn chưa có được một tiêu chí chung để xác định, một khu dân cư như thế nào là một thành phố? Tại một số nước, thành phố là nơi tập trung từ hai nghìn cư dân trở lên, còn ở một số nước khác, số cư dân trong một thành phố phải cao hơn 20 nghìn người. Tại Mỹ chẳng hạn, một khu dân cư có hơn 2,5 nghìn người sinh sống có thể được coi là một thành phố. Trung Quốc đã không chỉ một lần thay đi đổi lại tiêu chí thành phố và vì thế năm 1994, có tới 40% dân số nước này được coi là người thành phố và hai năm sau đó, tỉ lệ đó đã là 43%!
Cho tới nay vẫn chưa ai biết một cách chắc chắn về đô thị đầu tiên xuất hiện trên trái đất. Một số nhà sử học cho rằng, chúng đã từng có ở vương quốc cổ Shumer (nằm ở miền nam Iraq hiện đại) và Ấn Độ khoảng từ 5 tới 7 nghìn năm trước. Có lẽ đô thị đầu tiên có dân số hơn 1 triệu người là thành Rome ở La Mã cổ đại, ở vào khoảng thế kỷ thứ V. Sự kiện này có tầm quan trọng rất lớn: đại đa số các nhà sử học đều cho rằng, khi đó toàn bộ dân số trên thế giới không vượt quá 170 triệu người.
Trong tập sách tra cứu hàn lâm Quá trình đô thị hóa trong lịch sử có ghi rằng chính tại thành Rome khi ấy đã xuất hiện hàng loạt những công nghệ mà cho tới nay vẫn được sử dụng trong các đô thị hiện đại: chính ở đấy đã lập ra các hệ thống trung tâm cung cấp nước và thoát nước, thông lệ trợ cấp nhà ở các cư dân nghèo... Tuy nhiên, sau khi đế chế La Mã sụp đổ, trong suốt 17 thế kỷ liền trên trái đất không có một đô thị triệu dân nào khác nữa. Mãi tới năm 1800, Bắc Kinh mới vượt qua được ranh giới này. Và tiếp theo là hai thành phố New YorkLondon. Thời ấy, đô thị lớn còn là những hiện tượng hiếm hoi và lạ lẫm vì chỉ có khoảng 4% dân số thế giới sống ở các đô thị.
Cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo nên đà mới cho quá trình đô thị hóa: chính tại các thành phố đã mọc lên vô số những nhà máy công nghiệp, thu hút đông đảo nhân công làm thuê (thành phần xuất thân chủ yếu là nông dân hay người nhập cư). Tới năm 1900 đã có khoảng 14% dân số thế giới sống trong các đô thị và 12 thành phố có số dân đông hơn 1 triệu người. Hiện tượng tương tự như thế hiện đang diễn ra tại các nước đang phát triển: người dân ở các vùng nông thôn đổ xô vào các đô thị để kiếm tìm việc làm và trốn tránh nạn đói. Tại Trung Quốc trong những năm 1960 - 1990 tốc độ gia tăng dân số ở các đô thị dựa trên sự gia tăng tự nhiên và giảm tỉ lệ tử vong khoảng 60%, phần còn lại (40%) là do nông dân chuyển ra kiếm kế sinh nhai.
Trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tại nhiều nơi trên thế giới (có lẽ chỉ trừ Việt Nam, nơi từ lâu đã có câu ca “Giàu nhà quê không bằng ngồi lê Kẻ Chợ”), các đô thị vẫn bị coi là nơi cư trú không mấy thuận tiện: thông thường, nông dân được sống ở những nơi rộng rãi hơn, thoáng mát hơn, có điều kiện vệ sinh tốt hơn; chính vì thế mà dân đô thị ở châu Âu hay bị mắc các dịch bệnh nhiều hơn người nông dân.
Theo nghiên cứu của tổ chức Population Reference Bureau, giữa thế kỷ XIX, tại phần lớn các đô thị châu Âu tỉ lệ tử vong luôn cao hơn tỉ lệ sinh. Đến giữa thế kỷ XX, tốc độ tăng trưởng cao nhất lại thuộc về các đô thị nằm ở những quốc gia giàu có: sự gia tăng dân số ở đây phụ thuộc chủ yếu do luồng dân di cư và nhập cư từ nơi khác tới. Tới năm 1950 đã có khoảng 30% dân số trên thế giới sống ở các đô thị và trên trái đất đã có khoảng 83 thành phố với số dân trên 1 triệu người. Những đô thị lớn nhất thế giới lúc đó là New York (Mỹ), London (Anh), Tokyo (Nhật Bản), Paris (Pháp), Moskva (Liên Xô), Chicago (Mỹ) và Essemn (CHLB Đức). Chẳng bao lâu sau đó, New York đã trở thành thành phố lớn nhất thế giới với dân số lên tới trên 10 triệu người.

Đông chưa chắc đã vui
Trong thế kỷ XX, dân số thế giới đã tăng từ 1,65 tỉ lên tới trên 6 tỉ người. Tốc độ gia tăng cư dân đô thị cao hơn hẳn so với tốc độ gia tăng dân số nói chung. Theo thống kê của LHQ, hiện nay dân số cư trú ở các đô thị chiếm khoảng 47% dân số thế giới (2,8 tỉ người). Đang có khoảng 411 thành phố lớn với số dân trên 1 triệu người. 39% số cư dân thị thành sống ở những thành phố có số dân trên 1 triệu người. 15% số cư dân đô thị sống tại những thành phố lớn có trên 5 triệu người.
Theo các con số thống kê gần đây, những thành phố đông dân nhất thế giới là  Tokyo (26,5 triệu dân), San Paolo (18,3 triệu dân), Mexico City (18,3 triệu dân), New York (16,8 triệu dân), Bombay (16,5 triệu dân)... Theo dự báo của Population Institute, tới năm 2015, danh sách này sẽ có những thay đổi không nhỏ. Tokyo có thể vẫn tiếp tục giữ ngôi vị quán quân về dân số nhưng những thành phố đi sát theo sau nó sẽ là Dacca, Bombay, San Paolo, Delhy và Mexico City. New York có thể bị sẽ đẩy lùi xuống vị trí thứ 7. Trong top-ten các đô thị đông dân nhất của năm 2015 có thể sẽ còn có thêm Jakarta, Calcutta và Carachi...
Đứng đầu về tốc độ đô thị hoá các quốc gia thuộc “thế giới thứ ba”, tại các thành phố lớn ở khu vực này hiện đang sinh sống tới 1,7 tỉ người.
Những con số như thế hoàn toàn không phải là minh chứng về việc cuộc sống thị thành đã thực sự trở nên hấp dẫn đối với con người. Tới cuối thế kỷ XX, tại Hoa Kỳ và một phần ở châu Âu đã xuất hiện dòng chảy ngược: những cư dân thị thành chuyển dần về sống ở vùng ngoại ô. Theo số liệu do tạp chí The Enviromental Magazine, trong giai đoạn từ 1970 tới 1996, dân số ở thành phố Detroi (Mỹ) đã giảm tới 33,9%, còn ở thành phố Saint Louis, tỉ lệ này là 49%. Nguyên nhân, theo tạp chí này, là do tình hình an ninh trật tự và môi trường trở nên tồi tệ hơn ở các đô thị đó.

Tương lai không rạng tỏ
Trung bình số dân gia tăng hàng năm trên trái đất ở con số trên dưới 77 triệu người, trong số này có tới 60 triệu người sống ở các đô thị. Theo số liệu của một công trình nghiên cứu do Liên hợp quốc (LHQ) và Ngân hàng thế giới (WB) tài trợ, đến năm 2025 sẽ có tới hai phần số dân trên thế giới sống trong các đô thị. Tới năm 2015 sẽ có khoảng 33 thành phố với số dân trên 8 triệu người và khoảng 500 đô thị có số dân trên 1 triệu người. Trong vòng khoảng một thập niên tới, diện tích các đô thị tại “thế giới thứ ba” có thể sẽ tăng gấp đôi.
Tuy nhiên, đời sống ở đại đa số các đô thị đang ngày càng trở nên khó khăn và nguy hiểm: bị suy giảm sức khoẻ, thậm chí mất mạng, ở các đô thị thường dễ hơn là ở vùng nông thôn. Đó chính là kết luận của các nhà phân tích thuộc Chương trình thông tin nghiên cứu về dân số Trường đại học Tổng hợp John Hopkins. Sự bành trướng của các đô thị ở “thế giới thứ ba” sẽ gây nên những tác động tiêu cực khôn lường cho môi trường. Trong nửa thế kỷ gần đây, lượng nước ngọt được sử dụng trên thế giới đã tăng gấp bốn lần, nhưng có tới 90% lượng nước thải từ các hệ thống cống rãnh ở các đô thị thuộc “thế giới thứ ba” đã lọt ra biển mà không hề được xử lý. Tại châu Phi có tới 80% lượng rác đã được đổ ra khoảng không chẳng có gì che đậy...
Các chuyên gia đã dự báo, đại đa số những người thu nhập thấp nhất sắp tới sẽ cư trú tại các đô thị, trong những điều kiện tồi tệ hơn nhiều so với các vùng nông thôn. New Arleans đã là một trong những đô thị nghèo đói nhất Hoa Kỳ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới cảnh hôi của và cướp bóc tràn lan ở thành phố thảm họa này khi cơn bão Katrina tràn qua.

Nguồn: ANTG Cuối Tháng

Hệ lụy đô thị hóa


Có không chỉ một cách định nghĩa về khái niệm đô thị hóa. Theo một số chuyên gia, đô thị hóa hay sự tăng trưởng vật lý của các khu vực đô thị là kết quả của quá trình dịch chuyển của các cư dân từ những vùng nông thôn vào thành phố. Một số chuyên gia khác cho rằng, đô thị hóa là quá trình nâng cao vai trò của các thành phố trong sự phát triển của xã hội. Điều kiện tiên quyết đô thị hóa - sự tăng trưởng trong các ngành công nghiệp đô thị, sự phát triển của các chức năng văn hóa và chính trị của họ, sâu sắc của sự phân chia lãnh thổ của lao động. Đối với quá trình đô thị hóa được đặc trưng bởi dòng dân số nông thôn và sự gia tăng con lắc di chuyển dân số từ môi trường nông thôn và các thị trấn nhỏ xung quanh các thành phố lớn vì những lý do khác nhau.


Hệ lụy đô thị hóa
KINH KHA

Mặc dầu thế giới hiện đại được coi là “nền văn minh đô thị lớn” nhưng những thành phố khổng lồ thực ra vẫn còn là hiện tượng lạ lẫm đối với nhân loại. Trong phần lớn lịch sử của mình, nhân loại chủ yếu chỉ sống ở những vùng nông thôn và làm nông nghiệp. Giờ đây con người đang lao vào giai đoạn đô thị hóa quá khẩn trương và không ai dám nói chắc về những ảnh hưởng của xu thế này đối với tương lai của nền văn minh.
Lịch sử các thành phố
Một điều đáng lưu ý là, cho tới hôm nay trên thế giới vẫn chưa có được một tiêu chí chung để xác định, một khu dân cư như thế nào là một thành phố? Tại một số nước, thành phố là nơi tập trung từ hai nghìn cư dân trở lên, còn ở một số nước khác, số cư dân trong một thành phố phải cao hơn 20 nghìn người. Tại Mỹ chẳng hạn, một khu dân cư có hơn 2,5 nghìn người sinh sống có thể được coi là một thành phố. Trung Quốc đã không chỉ một lần thay đi đổi lại tiêu chí thành phố và vì thế năm 1994, có tới 40% dân số nước này được coi là người thành phố và hai năm sau đó, tỉ lệ đó đã là 43%!
Cho tới nay vẫn chưa ai biết một cách chắc chắn về đô thị đầu tiên xuất hiện trên trái đất. Một số nhà sử học cho rằng, chúng đã từng có ở vương quốc cổ Shumer (nằm ở miền nam Iraq hiện đại) và Ấn Độ khoảng từ 5 tới 7 nghìn năm trước. Có lẽ đô thị đầu tiên có dân số hơn 1 triệu người là thành Rome ở La Mã cổ đại, ở vào khoảng thế kỷ thứ V. Sự kiện này có tầm quan trọng rất lớn: đại đa số các nhà sử học đều cho rằng, khi đó toàn bộ dân số trên thế giới không vượt quá 170 triệu người.
Trong tập sách tra cứu hàn lâm Quá trình đô thị hóa trong lịch sử có ghi rằng chính tại thành Rome khi ấy đã xuất hiện hàng loạt những công nghệ mà cho tới nay vẫn được sử dụng trong các đô thị hiện đại: chính ở đấy đã lập ra các hệ thống trung tâm cung cấp nước và thoát nước, thông lệ trợ cấp nhà ở các cư dân nghèo... Tuy nhiên, sau khi đế chế La Mã sụp đổ, trong suốt 17 thế kỷ liền trên trái đất không có một đô thị triệu dân nào khác nữa. Mãi tới năm 1800, Bắc Kinh mới vượt qua được ranh giới này. Và tiếp theo là hai thành phố New YorkLondon. Thời ấy, đô thị lớn còn là những hiện tượng hiếm hoi và lạ lẫm vì chỉ có khoảng 4% dân số thế giới sống ở các đô thị.
Cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo nên đà mới cho quá trình đô thị hóa: chính tại các thành phố đã mọc lên vô số những nhà máy công nghiệp, thu hút đông đảo nhân công làm thuê (thành phần xuất thân chủ yếu là nông dân hay người nhập cư). Tới năm 1900 đã có khoảng 14% dân số thế giới sống trong các đô thị và 12 thành phố có số dân đông hơn 1 triệu người. Hiện tượng tương tự như thế hiện đang diễn ra tại các nước đang phát triển: người dân ở các vùng nông thôn đổ xô vào các đô thị để kiếm tìm việc làm và trốn tránh nạn đói. Tại Trung Quốc trong những năm 1960 - 1990 tốc độ gia tăng dân số ở các đô thị dựa trên sự gia tăng tự nhiên và giảm tỉ lệ tử vong khoảng 60%, phần còn lại (40%) là do nông dân chuyển ra kiếm kế sinh nhai.
Trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tại nhiều nơi trên thế giới (có lẽ chỉ trừ Việt Nam, nơi từ lâu đã có câu ca “Giàu nhà quê không bằng ngồi lê Kẻ Chợ”), các đô thị vẫn bị coi là nơi cư trú không mấy thuận tiện: thông thường, nông dân được sống ở những nơi rộng rãi hơn, thoáng mát hơn, có điều kiện vệ sinh tốt hơn; chính vì thế mà dân đô thị ở châu Âu hay bị mắc các dịch bệnh nhiều hơn người nông dân.
Theo nghiên cứu của tổ chức Population Reference Bureau, giữa thế kỷ XIX, tại phần lớn các đô thị châu Âu tỉ lệ tử vong luôn cao hơn tỉ lệ sinh. Đến giữa thế kỷ XX, tốc độ tăng trưởng cao nhất lại thuộc về các đô thị nằm ở những quốc gia giàu có: sự gia tăng dân số ở đây phụ thuộc chủ yếu do luồng dân di cư và nhập cư từ nơi khác tới. Tới năm 1950 đã có khoảng 30% dân số trên thế giới sống ở các đô thị và trên trái đất đã có khoảng 83 thành phố với số dân trên 1 triệu người. Những đô thị lớn nhất thế giới lúc đó là New York (Mỹ), London (Anh), Tokyo (Nhật Bản), Paris (Pháp), Moskva (Liên Xô), Chicago (Mỹ) và Essemn (CHLB Đức). Chẳng bao lâu sau đó, New York đã trở thành thành phố lớn nhất thế giới với dân số lên tới trên 10 triệu người.

Đông chưa chắc đã vui
Trong thế kỷ XX, dân số thế giới đã tăng từ 1,65 tỉ lên tới trên 6 tỉ người. Tốc độ gia tăng cư dân đô thị cao hơn hẳn so với tốc độ gia tăng dân số nói chung. Theo thống kê của LHQ, hiện nay dân số cư trú ở các đô thị chiếm khoảng 47% dân số thế giới (2,8 tỉ người). Đang có khoảng 411 thành phố lớn với số dân trên 1 triệu người. 39% số cư dân thị thành sống ở những thành phố có số dân trên 1 triệu người. 15% số cư dân đô thị sống tại những thành phố lớn có trên 5 triệu người.
Theo các con số thống kê gần đây, những thành phố đông dân nhất thế giới là  Tokyo (26,5 triệu dân), San Paolo (18,3 triệu dân), Mexico City (18,3 triệu dân), New York (16,8 triệu dân), Bombay (16,5 triệu dân)... Theo dự báo của Population Institute, tới năm 2015, danh sách này sẽ có những thay đổi không nhỏ. Tokyo có thể vẫn tiếp tục giữ ngôi vị quán quân về dân số nhưng những thành phố đi sát theo sau nó sẽ là Dacca, Bombay, San Paolo, Delhy và Mexico City. New York có thể bị sẽ đẩy lùi xuống vị trí thứ 7. Trong top-ten các đô thị đông dân nhất của năm 2015 có thể sẽ còn có thêm Jakarta, Calcutta và Carachi...
Đứng đầu về tốc độ đô thị hoá các quốc gia thuộc “thế giới thứ ba”, tại các thành phố lớn ở khu vực này hiện đang sinh sống tới 1,7 tỉ người.
Những con số như thế hoàn toàn không phải là minh chứng về việc cuộc sống thị thành đã thực sự trở nên hấp dẫn đối với con người. Tới cuối thế kỷ XX, tại Hoa Kỳ và một phần ở châu Âu đã xuất hiện dòng chảy ngược: những cư dân thị thành chuyển dần về sống ở vùng ngoại ô. Theo số liệu do tạp chí The Enviromental Magazine, trong giai đoạn từ 1970 tới 1996, dân số ở thành phố Detroi (Mỹ) đã giảm tới 33,9%, còn ở thành phố Saint Louis, tỉ lệ này là 49%. Nguyên nhân, theo tạp chí này, là do tình hình an ninh trật tự và môi trường trở nên tồi tệ hơn ở các đô thị đó.

Tương lai không rạng tỏ
Trung bình số dân gia tăng hàng năm trên trái đất ở con số trên dưới 77 triệu người, trong số này có tới 60 triệu người sống ở các đô thị. Theo số liệu của một công trình nghiên cứu do Liên hợp quốc (LHQ) và Ngân hàng thế giới (WB) tài trợ, đến năm 2025 sẽ có tới hai phần số dân trên thế giới sống trong các đô thị. Tới năm 2015 sẽ có khoảng 33 thành phố với số dân trên 8 triệu người và khoảng 500 đô thị có số dân trên 1 triệu người. Trong vòng khoảng một thập niên tới, diện tích các đô thị tại “thế giới thứ ba” có thể sẽ tăng gấp đôi.
Tuy nhiên, đời sống ở đại đa số các đô thị đang ngày càng trở nên khó khăn và nguy hiểm: bị suy giảm sức khoẻ, thậm chí mất mạng, ở các đô thị thường dễ hơn là ở vùng nông thôn. Đó chính là kết luận của các nhà phân tích thuộc Chương trình thông tin nghiên cứu về dân số Trường đại học Tổng hợp John Hopkins. Sự bành trướng của các đô thị ở “thế giới thứ ba” sẽ gây nên những tác động tiêu cực khôn lường cho môi trường. Trong nửa thế kỷ gần đây, lượng nước ngọt được sử dụng trên thế giới đã tăng gấp bốn lần, nhưng có tới 90% lượng nước thải từ các hệ thống cống rãnh ở các đô thị thuộc “thế giới thứ ba” đã lọt ra biển mà không hề được xử lý. Tại châu Phi có tới 80% lượng rác đã được đổ ra khoảng không chẳng có gì che đậy...
Các chuyên gia đã dự báo, đại đa số những người thu nhập thấp nhất sắp tới sẽ cư trú tại các đô thị, trong những điều kiện tồi tệ hơn nhiều so với các vùng nông thôn. New Arleans đã là một trong những đô thị nghèo đói nhất Hoa Kỳ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới cảnh hôi của và cướp bóc tràn lan ở thành phố thảm họa này khi cơn bão Katrina tràn qua.

Nguồn: ANTG Cuối Tháng

Hệ lụy đô thị hóa


Có không chỉ một cách định nghĩa về khái niệm đô thị hóa. Theo một số chuyên gia, đô thị hóa hay sự tăng trưởng vật lý của các khu vực đô thị là kết quả của quá trình dịch chuyển của các cư dân từ những vùng nông thôn vào thành phố. Một số chuyên gia khác cho rằng, đô thị hóa là quá trình nâng cao vai trò của các thành phố trong sự phát triển của xã hội. Điều kiện tiên quyết đô thị hóa - sự tăng trưởng trong các ngành công nghiệp đô thị, sự phát triển của các chức năng văn hóa và chính trị của họ, sâu sắc của sự phân chia lãnh thổ của lao động. Đối với quá trình đô thị hóa được đặc trưng bởi dòng dân số nông thôn và sự gia tăng con lắc di chuyển dân số từ môi trường nông thôn và các thị trấn nhỏ xung quanh các thành phố lớn vì những lý do khác nhau.


Hệ lụy đô thị hóa
KINH KHA

Mặc dầu thế giới hiện đại được coi là “nền văn minh đô thị lớn” nhưng những thành phố khổng lồ thực ra vẫn còn là hiện tượng lạ lẫm đối với nhân loại. Trong phần lớn lịch sử của mình, nhân loại chủ yếu chỉ sống ở những vùng nông thôn và làm nông nghiệp. Giờ đây con người đang lao vào giai đoạn đô thị hóa quá khẩn trương và không ai dám nói chắc về những ảnh hưởng của xu thế này đối với tương lai của nền văn minh.
Lịch sử các thành phố
Một điều đáng lưu ý là, cho tới hôm nay trên thế giới vẫn chưa có được một tiêu chí chung để xác định, một khu dân cư như thế nào là một thành phố? Tại một số nước, thành phố là nơi tập trung từ hai nghìn cư dân trở lên, còn ở một số nước khác, số cư dân trong một thành phố phải cao hơn 20 nghìn người. Tại Mỹ chẳng hạn, một khu dân cư có hơn 2,5 nghìn người sinh sống có thể được coi là một thành phố. Trung Quốc đã không chỉ một lần thay đi đổi lại tiêu chí thành phố và vì thế năm 1994, có tới 40% dân số nước này được coi là người thành phố và hai năm sau đó, tỉ lệ đó đã là 43%!
Cho tới nay vẫn chưa ai biết một cách chắc chắn về đô thị đầu tiên xuất hiện trên trái đất. Một số nhà sử học cho rằng, chúng đã từng có ở vương quốc cổ Shumer (nằm ở miền nam Iraq hiện đại) và Ấn Độ khoảng từ 5 tới 7 nghìn năm trước. Có lẽ đô thị đầu tiên có dân số hơn 1 triệu người là thành Rome ở La Mã cổ đại, ở vào khoảng thế kỷ thứ V. Sự kiện này có tầm quan trọng rất lớn: đại đa số các nhà sử học đều cho rằng, khi đó toàn bộ dân số trên thế giới không vượt quá 170 triệu người.
Trong tập sách tra cứu hàn lâm Quá trình đô thị hóa trong lịch sử có ghi rằng chính tại thành Rome khi ấy đã xuất hiện hàng loạt những công nghệ mà cho tới nay vẫn được sử dụng trong các đô thị hiện đại: chính ở đấy đã lập ra các hệ thống trung tâm cung cấp nước và thoát nước, thông lệ trợ cấp nhà ở các cư dân nghèo... Tuy nhiên, sau khi đế chế La Mã sụp đổ, trong suốt 17 thế kỷ liền trên trái đất không có một đô thị triệu dân nào khác nữa. Mãi tới năm 1800, Bắc Kinh mới vượt qua được ranh giới này. Và tiếp theo là hai thành phố New YorkLondon. Thời ấy, đô thị lớn còn là những hiện tượng hiếm hoi và lạ lẫm vì chỉ có khoảng 4% dân số thế giới sống ở các đô thị.
Cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo nên đà mới cho quá trình đô thị hóa: chính tại các thành phố đã mọc lên vô số những nhà máy công nghiệp, thu hút đông đảo nhân công làm thuê (thành phần xuất thân chủ yếu là nông dân hay người nhập cư). Tới năm 1900 đã có khoảng 14% dân số thế giới sống trong các đô thị và 12 thành phố có số dân đông hơn 1 triệu người. Hiện tượng tương tự như thế hiện đang diễn ra tại các nước đang phát triển: người dân ở các vùng nông thôn đổ xô vào các đô thị để kiếm tìm việc làm và trốn tránh nạn đói. Tại Trung Quốc trong những năm 1960 - 1990 tốc độ gia tăng dân số ở các đô thị dựa trên sự gia tăng tự nhiên và giảm tỉ lệ tử vong khoảng 60%, phần còn lại (40%) là do nông dân chuyển ra kiếm kế sinh nhai.
Trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tại nhiều nơi trên thế giới (có lẽ chỉ trừ Việt Nam, nơi từ lâu đã có câu ca “Giàu nhà quê không bằng ngồi lê Kẻ Chợ”), các đô thị vẫn bị coi là nơi cư trú không mấy thuận tiện: thông thường, nông dân được sống ở những nơi rộng rãi hơn, thoáng mát hơn, có điều kiện vệ sinh tốt hơn; chính vì thế mà dân đô thị ở châu Âu hay bị mắc các dịch bệnh nhiều hơn người nông dân.
Theo nghiên cứu của tổ chức Population Reference Bureau, giữa thế kỷ XIX, tại phần lớn các đô thị châu Âu tỉ lệ tử vong luôn cao hơn tỉ lệ sinh. Đến giữa thế kỷ XX, tốc độ tăng trưởng cao nhất lại thuộc về các đô thị nằm ở những quốc gia giàu có: sự gia tăng dân số ở đây phụ thuộc chủ yếu do luồng dân di cư và nhập cư từ nơi khác tới. Tới năm 1950 đã có khoảng 30% dân số trên thế giới sống ở các đô thị và trên trái đất đã có khoảng 83 thành phố với số dân trên 1 triệu người. Những đô thị lớn nhất thế giới lúc đó là New York (Mỹ), London (Anh), Tokyo (Nhật Bản), Paris (Pháp), Moskva (Liên Xô), Chicago (Mỹ) và Essemn (CHLB Đức). Chẳng bao lâu sau đó, New York đã trở thành thành phố lớn nhất thế giới với dân số lên tới trên 10 triệu người.

Đông chưa chắc đã vui
Trong thế kỷ XX, dân số thế giới đã tăng từ 1,65 tỉ lên tới trên 6 tỉ người. Tốc độ gia tăng cư dân đô thị cao hơn hẳn so với tốc độ gia tăng dân số nói chung. Theo thống kê của LHQ, hiện nay dân số cư trú ở các đô thị chiếm khoảng 47% dân số thế giới (2,8 tỉ người). Đang có khoảng 411 thành phố lớn với số dân trên 1 triệu người. 39% số cư dân thị thành sống ở những thành phố có số dân trên 1 triệu người. 15% số cư dân đô thị sống tại những thành phố lớn có trên 5 triệu người.
Theo các con số thống kê gần đây, những thành phố đông dân nhất thế giới là  Tokyo (26,5 triệu dân), San Paolo (18,3 triệu dân), Mexico City (18,3 triệu dân), New York (16,8 triệu dân), Bombay (16,5 triệu dân)... Theo dự báo của Population Institute, tới năm 2015, danh sách này sẽ có những thay đổi không nhỏ. Tokyo có thể vẫn tiếp tục giữ ngôi vị quán quân về dân số nhưng những thành phố đi sát theo sau nó sẽ là Dacca, Bombay, San Paolo, Delhy và Mexico City. New York có thể bị sẽ đẩy lùi xuống vị trí thứ 7. Trong top-ten các đô thị đông dân nhất của năm 2015 có thể sẽ còn có thêm Jakarta, Calcutta và Carachi...
Đứng đầu về tốc độ đô thị hoá các quốc gia thuộc “thế giới thứ ba”, tại các thành phố lớn ở khu vực này hiện đang sinh sống tới 1,7 tỉ người.
Những con số như thế hoàn toàn không phải là minh chứng về việc cuộc sống thị thành đã thực sự trở nên hấp dẫn đối với con người. Tới cuối thế kỷ XX, tại Hoa Kỳ và một phần ở châu Âu đã xuất hiện dòng chảy ngược: những cư dân thị thành chuyển dần về sống ở vùng ngoại ô. Theo số liệu do tạp chí The Enviromental Magazine, trong giai đoạn từ 1970 tới 1996, dân số ở thành phố Detroi (Mỹ) đã giảm tới 33,9%, còn ở thành phố Saint Louis, tỉ lệ này là 49%. Nguyên nhân, theo tạp chí này, là do tình hình an ninh trật tự và môi trường trở nên tồi tệ hơn ở các đô thị đó.

Tương lai không rạng tỏ
Trung bình số dân gia tăng hàng năm trên trái đất ở con số trên dưới 77 triệu người, trong số này có tới 60 triệu người sống ở các đô thị. Theo số liệu của một công trình nghiên cứu do Liên hợp quốc (LHQ) và Ngân hàng thế giới (WB) tài trợ, đến năm 2025 sẽ có tới hai phần số dân trên thế giới sống trong các đô thị. Tới năm 2015 sẽ có khoảng 33 thành phố với số dân trên 8 triệu người và khoảng 500 đô thị có số dân trên 1 triệu người. Trong vòng khoảng một thập niên tới, diện tích các đô thị tại “thế giới thứ ba” có thể sẽ tăng gấp đôi.
Tuy nhiên, đời sống ở đại đa số các đô thị đang ngày càng trở nên khó khăn và nguy hiểm: bị suy giảm sức khoẻ, thậm chí mất mạng, ở các đô thị thường dễ hơn là ở vùng nông thôn. Đó chính là kết luận của các nhà phân tích thuộc Chương trình thông tin nghiên cứu về dân số Trường đại học Tổng hợp John Hopkins. Sự bành trướng của các đô thị ở “thế giới thứ ba” sẽ gây nên những tác động tiêu cực khôn lường cho môi trường. Trong nửa thế kỷ gần đây, lượng nước ngọt được sử dụng trên thế giới đã tăng gấp bốn lần, nhưng có tới 90% lượng nước thải từ các hệ thống cống rãnh ở các đô thị thuộc “thế giới thứ ba” đã lọt ra biển mà không hề được xử lý. Tại châu Phi có tới 80% lượng rác đã được đổ ra khoảng không chẳng có gì che đậy...
Các chuyên gia đã dự báo, đại đa số những người thu nhập thấp nhất sắp tới sẽ cư trú tại các đô thị, trong những điều kiện tồi tệ hơn nhiều so với các vùng nông thôn. New Arleans đã là một trong những đô thị nghèo đói nhất Hoa Kỳ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới cảnh hôi của và cướp bóc tràn lan ở thành phố thảm họa này khi cơn bão Katrina tràn qua.

Nguồn: ANTG Cuối Tháng

Thứ Năm, 3 tháng 1, 2013

Giải thưởng văn chương: Món Quà không Dễ Xơi

Nhạc sĩ Trần Tiến khi làm giám khảo một cuộc thi trên truyền hình đã phát biểu với báo giới: “Mình làm giám khảo chấm thí sinh còn khán giả thì đang chấm điểm mình”. Với một giải thưởng văn chương, người đọc sẽ chấm điểm ban giám khảo của giải thưởng đó. Hội đồng giám khảo của Hội Nhà văn Hà Nội gồm những ai thì báo chí đã nhiều lần nêu tên từng vị, mà tên vị nào cũng có thể đảm bảo uy tín chuyên môn cho lá phiếu của mình. Hội đồng giám khảo xét giải thưởng Hội Nhà văn TP.HCM, gồm Lê Quang Trang, Trần Văn Tuấn, Hoàng Đình Quang, Dương Trọng Dật, Phạm Sỹ Sáu, đều là chức sắc đứng đầu Hội hoặc các hội đồng chuyên môn của Hội Nhà văn TP.HCM, nhưng ít nhiều chưa tạo được uy tín với công chúng và đồng nghiệp bằng tác phẩm của mình. Điều này có thể khiến cho lá phiếu chấm giải của các vị không có được uy tín cao trong giới cầm bút cũng như độc giả.


Giải thưởng văn chương 2012: “Món quà” không “dễ xơi” 

TRẦN HOÀNG NHÂN

Nói tới giải thưởng văn học hàng năm, có thể kể ra ba “chân kiềng”: giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, giải của Hội Nhà văn Hà Nội và Hội Nhà văn TP.HCM. Thế nhưng không phải cứ đoạt giải của một trong ba hội này là trở thành tác phẩm xuất sắc nhất trong năm. Ngược lại, trong các năm gần đây, người yêu văn chương có vẻ thờ ơ với giải thưởng có tính “chuyên môn cao” của các hội này.
Nhiều người còn cho rằng, giải thưởng hàng năm của các cấp hội nhà văn từ địa phương đến trung ương như những món quà: Ai đến xin thì xét cho, tùy vào mối thân tình của người đi xin với người được quyền cho. Có ý kiến còn khẳng định: Tác giả A. đã “chi cửa trước luồn cửa sau” để được nhận giải của Hội hòng kiếm chút danh với đời. Tạm gác qua những “góc khuất” của các giải thưởng, chỉ xin nêu tính minh bạch và công tâm ở hai giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội và TP.HCM trong năm 2012, vì giải Hội Nhà văn Việt Nam đến phút này chưa công bố.

Công tâm và uy tín
“Công tâm và uy tín” là cụm từ được truyền thông lẫn các nhà văn dành tặng cho giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội hay đúng hơn là dành tặng cho các vị trong Hội đồng giám khảo giải thưởng này. Trong các năm gần đây, từ thời nhà văn Hồ Anh Thái đến nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên làm chủ tịch, Hội Nhà văn Hà Nội luôn tạo ra nhiều dấu ấn khi quyết định trao giải hàng năm. Có người nói đùa mà rất thật rằng, sau khi Hội Nhà văn Hà Nội trao giải thì đến lượt Hội Nhà văn Việt Nam không còn gì để trao nữa, bởi gần như tác phẩm xuất sắc nhất trong năm đã được vinh danh rồi!
Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2012 được Hội đồng giám khảo gồm những nhà thơ, nhà văn, nhà lý luận phê bình, dịch giả uy tín chấm giải đã trao cho tiểu thuyết SBC là săn bắt chuộtcủa Hồ Anh Thái, tập thơ Buổi câu hờ hững - Nguyễn Bình Phương, tập lý luận phê bình Dĩ vãng phía trước - Ngô Thảo, bản dịch của Dương Tường - tiểu thuyết Lolita và giải Thành tựu cho nhà thơ Phùng Cung với tập thơ Xem đêm. Tất cả các tác phẩm tham dự giải thưởng này đều được công khai khi xét giải và các thành viên trong Hội đồng chấm giải đều trình bày quan điểm của mình trước khi bỏ phiếu để chọn ra tác phẩm xứng đáng nhất trong năm.
Ngoài uy tín và sự công tâm của từng thành viên Hội đồng xét giải, giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội còn thể hiện sự dũng cảm khi trao giải dịch thuật cho bản dịch từng gây tranh cãi của Dương Tường. Việc trao giải này thể hiện sự đánh giá sức lao động nghiêm túc của dịch giả, như Dương Tường phát biểu hôm phát giải, rằng ông đã làm việc hai năm miệt vài với Lolita – một cuốn sách rất khó dịch, có sai sót gì là lỗi của trình độ dịch chứ không phải do dịch ẩu.
Sự công tâm và uy tín của các thành viên trong ban giám khảo ở bất cứ một cuộc thi nào sẽ làm nên diện mạo của giải thưởng đó. Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội đã có được một ban giám khảo như thế nên tất nhiên giải của Hội này được đánh giá cao là điều dễ hiểu.

Bất ngờ xuất sắc sau 5 năm im lặng
Giải thưởng văn học nghệ thuật TP.HCM 5 năm lần thứ nhất do Liên hiệp Các hội văn học nghệ thuật TP.HCM tổ chức vừa được trao cuối tháng 12/2012 dành cho các lĩnh vực: văn học, âm nhạc, kịch, múa... Riêng văn học, hầu hết các tác phẩm văn xuôi đều đoạt giải lần này, với bốn tiểu thuyết: giải Nhất Mùa Hè giá buốt (Văn Lê), giải Nhì Thế giới xô lệch (Bích Ngân), giải Ba Đêm Sài Gòn không ngủ (Trầm Hương), giải Khuyến khích Xuân Lộc(Hoàng Đình Quang). Xem danh sách văn chương đoạt giải 5 năm lần thứ nhất của TP.HCM cứ ngỡ thành phố phương Nam là vùng đất tiểu thuyết.
Thế nhưng, cả bốn tiểu thuyết đoạt giải lại khiến cho người đọc băn khoăn. Bởi cả bốn cuốn tiểu thuyết này, kể từ khi được trình làng đến khi nhận giải 5 năm của TP.HCM dường như không để lại chút dư âm nào trong dư luận. Dư luận ở đây không xét trên phương diện truyền thông mà xét ở các giải thưởng nghề nghiệp trong hành trình đi đến giải 5 năm mà từng cuốn sách nhận được. Vì hàng năm, Hội Nhà văn TP.HCM đều có giải cho những tác phẩm nổi trội nhất trong năm nhưng không hề có tên bốn cuốn tiểu thuyết nói trên. Người yêu văn chương có quyền đặt câu hỏi: Tại sao trong 5 năm qua, cả bốn cuốn tiểu thuyết này không đoạt bất cứ giải thưởng nào của Hội Nhà văn TP.HCM lại “bất ngờ” nhận giải 5 năm của TP.HCM? Có lẽ nào trong 5 năm “im lặng” thì bốn cuốn tiểu này “bỗng dưng… xuất sắc”? Xin nói thêm, giải hàng năm của Hội Nhà văn TP.HCM nằm trong hệ thống giải của Liên hiệp Các hội văn học nghệ thuật TP.HCM.
Mới đây, giải hàng năm của Hội Nhà văn TP.HCM công bố chỉ có hai tập thơ nhận giải và tặng thưởng. Thật kỳ lạ, trong giải thưởng 5 năm của TP.HCM chỉ có toàn tiểu thuyết thì tại sao giải năm 2012 chỉ có vỏn vẹn hai tập thơ? Lẽ nào trong năm nay TP.HCM không có tập văn xuôi hay lý luận phê bình? Điều này khiến người yêu văn chương TP.HCM thắc mắc: Liệu Hội đồng giám khảo Hội Nhà văn TP.HCM có theo dõi đời sống văn chương của thành phố này hay chỉ ngồi chờ tác phẩm đến xin dự giải theo như điều lệ của giải thưởng?

Chấm điểm ban giám khảo
Nhạc sĩ Trần Tiến khi làm giám khảo một cuộc thi trên truyền hình đã phát biểu với báo giới: “Mình làm giám khảo chấm thí sinh còn khán giả thì đang chấm điểm mình”. Với một giải thưởng văn chương, người đọc sẽ chấm điểm ban giám khảo của giải thưởng đó.
Hội đồng giám khảo của Hội Nhà văn Hà Nội gồm những ai thì báo chí đã nhiều lần nêu tên từng vị, mà tên vị nào cũng có thể đảm bảo uy tín chuyên môn cho lá phiếu của mình. Hội đồng giám khảo xét giải thưởng Hội Nhà văn TP.HCM, gồm Lê Quang Trang, Trần Văn Tuấn, Hoàng Đình Quang, Dương Trọng Dật, Phạm Sỹ Sáu, đều là chức sắc đứng đầu Hội hoặc các hội đồng chuyên môn của Hội Nhà văn TP.HCM, nhưng ít nhiều chưa tạo được uy tín với công chúng và đồng nghiệp bằng tác phẩm của mình. Điều này có thể khiến cho lá phiếu chấm giải của các vị không có được uy tín cao trong giới cầm bút cũng như độc giả.
Thêm một điều dễ khiến người ta suy nghĩ trong giải của Hội Nhà văn TP.HCM và giải TP.HCM 5 năm lần thứ 1, phần lớn những người đoạt giải đều có chức trong Hội. Nhà văn Hoàng Đình Quang đang là ủy viên Ban chấp hành kiêm Chủ tịch Hội đồng văn xuôi, Bích Ngân là ủy viên ban chấp hành, Văn Lê là ủy viên Hội đồng thơ, Phan Hoàng nhận giải thưởng Thơ 2012 cũng là ủy viên ban chấp hành kiêm Trưởng ban văn trẻ của Hội này. Năm 2011, Phan Trung Thành nhận tặng thưởng khi đang là Chánh văn phòng của Hội Nhà văn TP.HCM. Việc các nhà văn, nhà thơ đang làm công tác Hội nhận giải của Hội không có gì sai chiếu theo điều lệ giải thưởng nếu tác phẩm của họ thực sự xuất sắc, gây tiếng vang trong dư luận và trong bạn nghề, nhưng thực tế những tác phẩm xuất sắc hoặc xuất chúng như vậy gần như không có.
Bình luận về thực tế này, nhà văn trào phúng Lê Văn Nghĩa, hiện đang là chủ biên báo Tuổi trẻ Cười, cho biết: “Hàng năm báo chúng tôi có giải Cù nèo Vàng dành cho lĩnh vực sân khấu. Nhiều người hỏi tôi sao không có giải cho tiểu phẩm trào phúng. Tôi nói có thì dễ thôi nhưng nếu có thì trước sau gì tôi cũng đoạt giải này, mà mình tổ chức giải rồi đi nhận giải của mình nữa thì không ra cái… ôn dịch gì hết!”


Nguồn TTVH

Giải thưởng văn chương: Món Quà không Dễ Xơi

Nhạc sĩ Trần Tiến khi làm giám khảo một cuộc thi trên truyền hình đã phát biểu với báo giới: “Mình làm giám khảo chấm thí sinh còn khán giả thì đang chấm điểm mình”. Với một giải thưởng văn chương, người đọc sẽ chấm điểm ban giám khảo của giải thưởng đó. Hội đồng giám khảo của Hội Nhà văn Hà Nội gồm những ai thì báo chí đã nhiều lần nêu tên từng vị, mà tên vị nào cũng có thể đảm bảo uy tín chuyên môn cho lá phiếu của mình. Hội đồng giám khảo xét giải thưởng Hội Nhà văn TP.HCM, gồm Lê Quang Trang, Trần Văn Tuấn, Hoàng Đình Quang, Dương Trọng Dật, Phạm Sỹ Sáu, đều là chức sắc đứng đầu Hội hoặc các hội đồng chuyên môn của Hội Nhà văn TP.HCM, nhưng ít nhiều chưa tạo được uy tín với công chúng và đồng nghiệp bằng tác phẩm của mình. Điều này có thể khiến cho lá phiếu chấm giải của các vị không có được uy tín cao trong giới cầm bút cũng như độc giả.


Giải thưởng văn chương 2012: “Món quà” không “dễ xơi” 

TRẦN HOÀNG NHÂN

Nói tới giải thưởng văn học hàng năm, có thể kể ra ba “chân kiềng”: giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, giải của Hội Nhà văn Hà Nội và Hội Nhà văn TP.HCM. Thế nhưng không phải cứ đoạt giải của một trong ba hội này là trở thành tác phẩm xuất sắc nhất trong năm. Ngược lại, trong các năm gần đây, người yêu văn chương có vẻ thờ ơ với giải thưởng có tính “chuyên môn cao” của các hội này.
Nhiều người còn cho rằng, giải thưởng hàng năm của các cấp hội nhà văn từ địa phương đến trung ương như những món quà: Ai đến xin thì xét cho, tùy vào mối thân tình của người đi xin với người được quyền cho. Có ý kiến còn khẳng định: Tác giả A. đã “chi cửa trước luồn cửa sau” để được nhận giải của Hội hòng kiếm chút danh với đời. Tạm gác qua những “góc khuất” của các giải thưởng, chỉ xin nêu tính minh bạch và công tâm ở hai giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội và TP.HCM trong năm 2012, vì giải Hội Nhà văn Việt Nam đến phút này chưa công bố.

Công tâm và uy tín
“Công tâm và uy tín” là cụm từ được truyền thông lẫn các nhà văn dành tặng cho giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội hay đúng hơn là dành tặng cho các vị trong Hội đồng giám khảo giải thưởng này. Trong các năm gần đây, từ thời nhà văn Hồ Anh Thái đến nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên làm chủ tịch, Hội Nhà văn Hà Nội luôn tạo ra nhiều dấu ấn khi quyết định trao giải hàng năm. Có người nói đùa mà rất thật rằng, sau khi Hội Nhà văn Hà Nội trao giải thì đến lượt Hội Nhà văn Việt Nam không còn gì để trao nữa, bởi gần như tác phẩm xuất sắc nhất trong năm đã được vinh danh rồi!
Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2012 được Hội đồng giám khảo gồm những nhà thơ, nhà văn, nhà lý luận phê bình, dịch giả uy tín chấm giải đã trao cho tiểu thuyết SBC là săn bắt chuộtcủa Hồ Anh Thái, tập thơ Buổi câu hờ hững - Nguyễn Bình Phương, tập lý luận phê bình Dĩ vãng phía trước - Ngô Thảo, bản dịch của Dương Tường - tiểu thuyết Lolita và giải Thành tựu cho nhà thơ Phùng Cung với tập thơ Xem đêm. Tất cả các tác phẩm tham dự giải thưởng này đều được công khai khi xét giải và các thành viên trong Hội đồng chấm giải đều trình bày quan điểm của mình trước khi bỏ phiếu để chọn ra tác phẩm xứng đáng nhất trong năm.
Ngoài uy tín và sự công tâm của từng thành viên Hội đồng xét giải, giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội còn thể hiện sự dũng cảm khi trao giải dịch thuật cho bản dịch từng gây tranh cãi của Dương Tường. Việc trao giải này thể hiện sự đánh giá sức lao động nghiêm túc của dịch giả, như Dương Tường phát biểu hôm phát giải, rằng ông đã làm việc hai năm miệt vài với Lolita – một cuốn sách rất khó dịch, có sai sót gì là lỗi của trình độ dịch chứ không phải do dịch ẩu.
Sự công tâm và uy tín của các thành viên trong ban giám khảo ở bất cứ một cuộc thi nào sẽ làm nên diện mạo của giải thưởng đó. Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội đã có được một ban giám khảo như thế nên tất nhiên giải của Hội này được đánh giá cao là điều dễ hiểu.

Bất ngờ xuất sắc sau 5 năm im lặng
Giải thưởng văn học nghệ thuật TP.HCM 5 năm lần thứ nhất do Liên hiệp Các hội văn học nghệ thuật TP.HCM tổ chức vừa được trao cuối tháng 12/2012 dành cho các lĩnh vực: văn học, âm nhạc, kịch, múa... Riêng văn học, hầu hết các tác phẩm văn xuôi đều đoạt giải lần này, với bốn tiểu thuyết: giải Nhất Mùa Hè giá buốt (Văn Lê), giải Nhì Thế giới xô lệch (Bích Ngân), giải Ba Đêm Sài Gòn không ngủ (Trầm Hương), giải Khuyến khích Xuân Lộc(Hoàng Đình Quang). Xem danh sách văn chương đoạt giải 5 năm lần thứ nhất của TP.HCM cứ ngỡ thành phố phương Nam là vùng đất tiểu thuyết.
Thế nhưng, cả bốn tiểu thuyết đoạt giải lại khiến cho người đọc băn khoăn. Bởi cả bốn cuốn tiểu thuyết này, kể từ khi được trình làng đến khi nhận giải 5 năm của TP.HCM dường như không để lại chút dư âm nào trong dư luận. Dư luận ở đây không xét trên phương diện truyền thông mà xét ở các giải thưởng nghề nghiệp trong hành trình đi đến giải 5 năm mà từng cuốn sách nhận được. Vì hàng năm, Hội Nhà văn TP.HCM đều có giải cho những tác phẩm nổi trội nhất trong năm nhưng không hề có tên bốn cuốn tiểu thuyết nói trên. Người yêu văn chương có quyền đặt câu hỏi: Tại sao trong 5 năm qua, cả bốn cuốn tiểu thuyết này không đoạt bất cứ giải thưởng nào của Hội Nhà văn TP.HCM lại “bất ngờ” nhận giải 5 năm của TP.HCM? Có lẽ nào trong 5 năm “im lặng” thì bốn cuốn tiểu này “bỗng dưng… xuất sắc”? Xin nói thêm, giải hàng năm của Hội Nhà văn TP.HCM nằm trong hệ thống giải của Liên hiệp Các hội văn học nghệ thuật TP.HCM.
Mới đây, giải hàng năm của Hội Nhà văn TP.HCM công bố chỉ có hai tập thơ nhận giải và tặng thưởng. Thật kỳ lạ, trong giải thưởng 5 năm của TP.HCM chỉ có toàn tiểu thuyết thì tại sao giải năm 2012 chỉ có vỏn vẹn hai tập thơ? Lẽ nào trong năm nay TP.HCM không có tập văn xuôi hay lý luận phê bình? Điều này khiến người yêu văn chương TP.HCM thắc mắc: Liệu Hội đồng giám khảo Hội Nhà văn TP.HCM có theo dõi đời sống văn chương của thành phố này hay chỉ ngồi chờ tác phẩm đến xin dự giải theo như điều lệ của giải thưởng?

Chấm điểm ban giám khảo
Nhạc sĩ Trần Tiến khi làm giám khảo một cuộc thi trên truyền hình đã phát biểu với báo giới: “Mình làm giám khảo chấm thí sinh còn khán giả thì đang chấm điểm mình”. Với một giải thưởng văn chương, người đọc sẽ chấm điểm ban giám khảo của giải thưởng đó.
Hội đồng giám khảo của Hội Nhà văn Hà Nội gồm những ai thì báo chí đã nhiều lần nêu tên từng vị, mà tên vị nào cũng có thể đảm bảo uy tín chuyên môn cho lá phiếu của mình. Hội đồng giám khảo xét giải thưởng Hội Nhà văn TP.HCM, gồm Lê Quang Trang, Trần Văn Tuấn, Hoàng Đình Quang, Dương Trọng Dật, Phạm Sỹ Sáu, đều là chức sắc đứng đầu Hội hoặc các hội đồng chuyên môn của Hội Nhà văn TP.HCM, nhưng ít nhiều chưa tạo được uy tín với công chúng và đồng nghiệp bằng tác phẩm của mình. Điều này có thể khiến cho lá phiếu chấm giải của các vị không có được uy tín cao trong giới cầm bút cũng như độc giả.
Thêm một điều dễ khiến người ta suy nghĩ trong giải của Hội Nhà văn TP.HCM và giải TP.HCM 5 năm lần thứ 1, phần lớn những người đoạt giải đều có chức trong Hội. Nhà văn Hoàng Đình Quang đang là ủy viên Ban chấp hành kiêm Chủ tịch Hội đồng văn xuôi, Bích Ngân là ủy viên ban chấp hành, Văn Lê là ủy viên Hội đồng thơ, Phan Hoàng nhận giải thưởng Thơ 2012 cũng là ủy viên ban chấp hành kiêm Trưởng ban văn trẻ của Hội này. Năm 2011, Phan Trung Thành nhận tặng thưởng khi đang là Chánh văn phòng của Hội Nhà văn TP.HCM. Việc các nhà văn, nhà thơ đang làm công tác Hội nhận giải của Hội không có gì sai chiếu theo điều lệ giải thưởng nếu tác phẩm của họ thực sự xuất sắc, gây tiếng vang trong dư luận và trong bạn nghề, nhưng thực tế những tác phẩm xuất sắc hoặc xuất chúng như vậy gần như không có.
Bình luận về thực tế này, nhà văn trào phúng Lê Văn Nghĩa, hiện đang là chủ biên báo Tuổi trẻ Cười, cho biết: “Hàng năm báo chúng tôi có giải Cù nèo Vàng dành cho lĩnh vực sân khấu. Nhiều người hỏi tôi sao không có giải cho tiểu phẩm trào phúng. Tôi nói có thì dễ thôi nhưng nếu có thì trước sau gì tôi cũng đoạt giải này, mà mình tổ chức giải rồi đi nhận giải của mình nữa thì không ra cái… ôn dịch gì hết!”


Nguồn TTVH

Thứ Tư, 26 tháng 12, 2012

Thơ dịch và Dịch thơ


Khoảng mươi mười lăm năm trở lại đây, nhờ xã hội trở nên cởi mở hơn nên sự giao lưu về đời sống tinh thần được gia tăng, sách dịch ngày càng đa dạng, càng nhiều. Nhưng trong cảnh phát triển xô bồ của đời sống hôm nay, không ít loại sách dịch bị giảm chất lượng, đặc biệt là sách văn học và nhất là thơ. Dường như, nhà xuất bản nào cũng để lọt sách dịch không đạt chất lượng, rất nhiều khâu bị lỗi. Ngay cả những nơi từng có uy tín cao nhưng bây giờ nhìn kỹ vào chất lượng sách dịch được in ra vẫn thấy gợn không ít sạn. Hơn nữa, xã hội hiện nay cũng đã trở nên cởi mở và tinh tường hơn đối với các dịch phẩm, khiến ngay cả những dịch giả nổi tiếng nhất khi công bố tác phẩm của mình cũng phải thận trọng vì dễ bị đối mặt với những khen chê rất khác nhau...



TẢN MẠN VỀ THƠ DỊCH

LA VĂN TIẾN

1. Tôi cũng không rõ là có nên dùng cụm từ “đội ngũ những người dịch văn học” hay không, bởi lẽ, phần đông những người dịch văn học hiện nay đều mạnh ai nấy làm, theo nhu cầu và năng lực cá nhân, manh mún, nhỏ lẻ. Dịch văn học không hẳn là chuyển ngữ. Đó là một sự sáng tác lại. Với thơ, 80% chất lượng phụ thuộc vào người dịch. Bất kỳ một nhà thơ trứ danh nào, nếu không “chọn” được người dịch khả dĩ thì đều có thể bị thất bại trong một ngôn ngữ khác. Không ít trường hợp dịch giả Việt Namđã “hạ sát” các thi nhân vĩ đại trên thế giới bằng tiếng Việt! Ngay những người có tên tuổi cũng làm “hàng” giả, đôi khi chỉ vì vô tình thôi, chỉ vì tài và tâm chỉ đến được mức độ ấy mà thôi. Thực sự là chúng ta không có những người thẩm định khách quan và sành điệu để đánh giá chuẩn xác về các tác phẩm văn học dịch. Nguyên nhân chính của hiện tượng này có lẽ là do quyền lợi “bầy đoàn”, cánh hẩu. Hoặc do sự hạn chế của chính những người cứ tưởng mình nắm chân lý trong tay như viên sỏi vậy... Tình hình trên quả thực đã ảnh hưởng không tốt đến văn học dịch, không nhiều người hiện nay dịch sách xuất phát từ khát khao cống hiến, khát khao góp phần bồi bổ những tinh hoa của văn học thế giới cho văn học quốc nội. Lớp trẻ hiện nay cũng có không ít tên tuổi nổi lên, nhưng nhìn chung, cũng không tạo được thành đội ngũ. Nói một cách công bằng, có những người trẻ dịch văn học chẳng thua gì các lớp cha chú, thậm chí còn hơn, nhưng vẫn bị “xoa đầu”. Thành ra họ nhảy ra ngoài cuộc chơi mà tham dự chủ yếu chỉ là những uy tín, lắm khi chỉ là “vang bóng một thời” mà thôi. Và vì thế, chúng ta không có sự kế thừa...
2. Một thời khá dài, thơ Nga cổ điển và thơ Nga Xôviết đã làm chủ “diễn đàn văn học dịch” ở ta. Đó cũng là điều hay, nhưng có lẽ chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được thế là may hay rủi. Cần biết chấp nhận thực tế như nó đã xảy ra. Một điều cần nói là, cho tới hôm nay vẫn chưa có ai đánh giá được đúng và đủ về chất lượng các bản dịch thơ tiếng Nga ra tiếng Việt như thế nào. Liệu chúng ta đã dựng được một nền thơ Nga đúng tầm với họ  bằng tiếng Việt hay chưa?
Tất nhiên, chẳng ai dại gì vạch áo cho người xem lưng, nên mọi sự đánh giá đến nay chỉ là cảm tính mà thôi. Sự thật thì không ít những bản dịch đã “ám sát” thi nhân nước ngoài bằng tiếng Việt. Tôi xin nhắc lại, hình như việc dịch thơ ở Việt Namđều là tự phát. Trong một nền kinh tế manh mún và nhỏ lẻ, đó cũng là điều đáng hoan nghênh vì chính nhờ lao động đầy ngẫu hứng và tình yêu cá nhân ấy mà chúng ta đã tạo nên được những ấn tượng nhất định trong lòng công chúng về thi ca thế giới. Nhưng chúng ta hầu như chưa làm được mấy việc để tạo dựng lại diện mạo những nền thơ lớn trên thế giới bằng tiếng Việt. Ngoại lệ có lẽ chỉ là thơ Đường! Thời gian qua, Nhà sách Đông Tây đã rất cố gắng để làm việc này, nhưng theo tôi, lực bất tòng tâm, hiệu quả đạt được chưa như mong đợi.
Hiện nay một số người có xu hướng lăng xê một số tác giả tiền phong của thơ Mỹ nói riêng và thơ phương Tây nói chung, coi như những ngọn cờ cần noi theo. Tôi thấy mọi sự hơi buồn cười... 
3. Rất khó dựng một nhà thơ nước ngoài bằng tiếng Việt ở mức độ tương đương với họ. Mỗi dân tộc hãy tự  “chăm lo” cho mình. Thơ có tính khu biệt khủng khiếp. Thơ phụ thuộc một cách cốt tử vào ngôn ngữ mà nó được viết ra. Mỗi đất nước, mỗi dân tộc đều có cách hình dung về thơ khác nhau. Bản thân mỗi một nhà thơ cũng có cách nhìn nhận riêng của mình về tính hiện đại trong thơ. Thơ không bao giờ là sự sáng tạo bầy đoàn. Tuyệt đối hóa một xu thế thơ như thể đó là duy nhất đúng bao giờ cũng là việc có hại cho sáng tác. Chúng ta không có nghĩa vụ coi bất cứ uy tín  ngoại lai nào là chuẩn mực. Mỗi dân tộc đều có bản sắc thơ riêng của mình... Mỗi nhà thơ cần có tiếng nói, dù nhỏ nhẹ, nhưng là riêng của cá nhân mình...
Tôi nghĩ là không thể dịch thơ “một trùng một” về ngữ nghĩa được. Có người đã từng khoe rằng họ dịch thơ nước ngoài sang tiếng Việt tới mức giữ được cả nhịp điệu, số lượng từ trong câu... Thật hoang tưởng, làm gì có chuyện ấy khi mỗi một ngôn ngữ có một kiểu hành văn khác nhau. Dịch thơ là phải đồng điệu tâm hồn với tác giả. Mình phải “lên đồng” cùng với tác giả. Dịch thơ không thể làm “cơ khí” được. Bởi thơ hay ở hồn vía. Nó hay ở cách tập hợp từ, liên kết từ, ở ngữ nghĩa của từng từ một, ở khoảng giữa các từ ấy.
Những người “tung” như vậy không hiểu về đối tượng mình viết. Ở Việt Namhiện nay đang có những nhà thơ với vốn ngoại ngữ tốt và từng có điều kiện tiếp xúc sâu với một số nền thơ nước ngoài nên dễ bị mang tiếng là chịu ảnh hưởng của những nền thơ đó. Tuy nhiên, sự thật cũng không hẳn như vậy, thậm chí là không phải như vậy. Ai biết thế nào là chất thơ Mỹ La tinh hay chất thơ Nga?! Cần phải thấy rằng, các nhà thơ ở Mỹ La tinh cũng như các nhà thơ Nga rất khác nhau. Mỗi một nhà thơ lớn là một thế giới, làm gì có cái gọi là chất Mỹ La tinh hay chất Nga chung chung ấy được? Hơn nữa, không một nhà thơ nào có thể quên được văn hoá của tổ tiên đến mức chịu ảnh hưởng của thơ nước ngoài. Mỗi một nhà thơ là một thế giới riêng thu nhỏ, nó khác nhau khủng khiếp...
4. Không có nền văn học hiện đại nào mà  chúng ta phải nhắm mắt đi theo cả. Bắt chước hay học đòi tân tiến là rất gây phản cảm. Làm thế chỉ là tuân theo một sự nô lệ kiểu mới, rất có hại cho đất nước. Đấy là chưa kể rằng, việc lăng xê một số tác giả thời thượng nước ngoài hiện nay là hoàn toàn vì mục đích thương mại. Trong quá khứ, chúng ta đã bị sai lầm khi thần tượng hoá một số người mà lẽ ra chỉ đáng để “tham khảo” chứ không phải để sao chép.
Thơ khi đã được dịch sang tiếng Việt là để cho người Việt đọc. Nếu như bảo đó là không phải Việt hoá thì rất buồn cười. Trong quá trình dịch, dịch giả càng giỏi thì giữ được đặc tính và bản sắc của nguyên bản ở mức độ cao nhưng thực ra, dịch sang tiếng Việt là đã Việt hoá rồi. Mỗi một từ của nước ngoài là một điển tích trong ngôn ngữ ấy, đưa sang thứ tiếng khác là khác đi vô số tình tiết rồi. Đặt vấn đề Việt hoá hay không là rất tầm phào. 

5. Hội đồng văn học dịch ở tổ chức nghề nghiệp của những người làm văn học chỉ có tác dụng nếu nó tạo nên được sự đánh giá đúng về chất lượng các bản dịch và những người dịch, giúp đỡ những người tâm huyết với công việc dịch văn học.  Còn không, đó chỉ là nơi ngồi cho những ai nghĩ rằng mình có quyền gì đó đối với các tác phẩm văn học dịch nhưng thực ra lại chỉ là “hữu danh vô thực” mà thôi... Phần lớn người dịch hiện nay đều làm theo sở thích của họ. Một số người dịch thơ thông qua đại sứ quán nhằm mục đích truyền bá văn hoá. Những tập thơ này, thường không đạt hiệu quả. Dịch thơ đôi khi còn nặng hơn làm thơ. Nó phải “diễn” tâm trạng người khác, vừa được giữ chất của mình. Dường như viết nhân vật đã khó, đóng nhân vật càng khó hơn. Hội đồng dịch cần phải đãi cát tìm vàng trong cái  mênh mông hỗn mang hiện nay.

6. Việc bản quyền làm nhiều người lo ngại. Phần lớn nhà thơ nước ngoài khi hay tin thơ của mình được dịch sang tiếng Việt sẽ không đòi tiền bản quyền. Vì bản quyền phải cân bằng với tỉ lệ thu nhập. Trong tình hình hiện nay, khó ai có thể thu lãi  nhờ việc bán thơ. Nếu như để in sách thì phải liên hệ với tác giả, còn dịch cho “vui” thì thôi. Không ai kết tội mình yêu thơ của mình. Tôi tin là họ sẽ hiểu và rất sung sướng khi người dịch thơ của mình hay. Đừng sợ công ước Berne mà chỉ sợ không dịch được thôi!
Nếu có điều kiện (đặc biệt dùng để tham khảo) thì nên in song ngữ là tốt nhất để người đọc biết được nguyên bản. Thực ra, dịch thơ là những phút ngẫu hứng trên chủ đề của nguyên bản. Ngay như, bản dịch Đợi anh về của nhà thơ Tố Hữu hay không phải là ông nhất nhất tuân thủ nguyên bản tiếng Nga vì ông dịch từ bản tiếng Pháp.

Nguồn: ANTG Cuối Tháng


Thơ dịch và Dịch thơ


Khoảng mươi mười lăm năm trở lại đây, nhờ xã hội trở nên cởi mở hơn nên sự giao lưu về đời sống tinh thần được gia tăng, sách dịch ngày càng đa dạng, càng nhiều. Nhưng trong cảnh phát triển xô bồ của đời sống hôm nay, không ít loại sách dịch bị giảm chất lượng, đặc biệt là sách văn học và nhất là thơ. Dường như, nhà xuất bản nào cũng để lọt sách dịch không đạt chất lượng, rất nhiều khâu bị lỗi. Ngay cả những nơi từng có uy tín cao nhưng bây giờ nhìn kỹ vào chất lượng sách dịch được in ra vẫn thấy gợn không ít sạn. Hơn nữa, xã hội hiện nay cũng đã trở nên cởi mở và tinh tường hơn đối với các dịch phẩm, khiến ngay cả những dịch giả nổi tiếng nhất khi công bố tác phẩm của mình cũng phải thận trọng vì dễ bị đối mặt với những khen chê rất khác nhau...



TẢN MẠN VỀ THƠ DỊCH

LA VĂN TIẾN

1. Tôi cũng không rõ là có nên dùng cụm từ “đội ngũ những người dịch văn học” hay không, bởi lẽ, phần đông những người dịch văn học hiện nay đều mạnh ai nấy làm, theo nhu cầu và năng lực cá nhân, manh mún, nhỏ lẻ. Dịch văn học không hẳn là chuyển ngữ. Đó là một sự sáng tác lại. Với thơ, 80% chất lượng phụ thuộc vào người dịch. Bất kỳ một nhà thơ trứ danh nào, nếu không “chọn” được người dịch khả dĩ thì đều có thể bị thất bại trong một ngôn ngữ khác. Không ít trường hợp dịch giả Việt Namđã “hạ sát” các thi nhân vĩ đại trên thế giới bằng tiếng Việt! Ngay những người có tên tuổi cũng làm “hàng” giả, đôi khi chỉ vì vô tình thôi, chỉ vì tài và tâm chỉ đến được mức độ ấy mà thôi. Thực sự là chúng ta không có những người thẩm định khách quan và sành điệu để đánh giá chuẩn xác về các tác phẩm văn học dịch. Nguyên nhân chính của hiện tượng này có lẽ là do quyền lợi “bầy đoàn”, cánh hẩu. Hoặc do sự hạn chế của chính những người cứ tưởng mình nắm chân lý trong tay như viên sỏi vậy... Tình hình trên quả thực đã ảnh hưởng không tốt đến văn học dịch, không nhiều người hiện nay dịch sách xuất phát từ khát khao cống hiến, khát khao góp phần bồi bổ những tinh hoa của văn học thế giới cho văn học quốc nội. Lớp trẻ hiện nay cũng có không ít tên tuổi nổi lên, nhưng nhìn chung, cũng không tạo được thành đội ngũ. Nói một cách công bằng, có những người trẻ dịch văn học chẳng thua gì các lớp cha chú, thậm chí còn hơn, nhưng vẫn bị “xoa đầu”. Thành ra họ nhảy ra ngoài cuộc chơi mà tham dự chủ yếu chỉ là những uy tín, lắm khi chỉ là “vang bóng một thời” mà thôi. Và vì thế, chúng ta không có sự kế thừa...
2. Một thời khá dài, thơ Nga cổ điển và thơ Nga Xôviết đã làm chủ “diễn đàn văn học dịch” ở ta. Đó cũng là điều hay, nhưng có lẽ chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được thế là may hay rủi. Cần biết chấp nhận thực tế như nó đã xảy ra. Một điều cần nói là, cho tới hôm nay vẫn chưa có ai đánh giá được đúng và đủ về chất lượng các bản dịch thơ tiếng Nga ra tiếng Việt như thế nào. Liệu chúng ta đã dựng được một nền thơ Nga đúng tầm với họ  bằng tiếng Việt hay chưa?
Tất nhiên, chẳng ai dại gì vạch áo cho người xem lưng, nên mọi sự đánh giá đến nay chỉ là cảm tính mà thôi. Sự thật thì không ít những bản dịch đã “ám sát” thi nhân nước ngoài bằng tiếng Việt. Tôi xin nhắc lại, hình như việc dịch thơ ở Việt Namđều là tự phát. Trong một nền kinh tế manh mún và nhỏ lẻ, đó cũng là điều đáng hoan nghênh vì chính nhờ lao động đầy ngẫu hứng và tình yêu cá nhân ấy mà chúng ta đã tạo nên được những ấn tượng nhất định trong lòng công chúng về thi ca thế giới. Nhưng chúng ta hầu như chưa làm được mấy việc để tạo dựng lại diện mạo những nền thơ lớn trên thế giới bằng tiếng Việt. Ngoại lệ có lẽ chỉ là thơ Đường! Thời gian qua, Nhà sách Đông Tây đã rất cố gắng để làm việc này, nhưng theo tôi, lực bất tòng tâm, hiệu quả đạt được chưa như mong đợi.
Hiện nay một số người có xu hướng lăng xê một số tác giả tiền phong của thơ Mỹ nói riêng và thơ phương Tây nói chung, coi như những ngọn cờ cần noi theo. Tôi thấy mọi sự hơi buồn cười... 
3. Rất khó dựng một nhà thơ nước ngoài bằng tiếng Việt ở mức độ tương đương với họ. Mỗi dân tộc hãy tự  “chăm lo” cho mình. Thơ có tính khu biệt khủng khiếp. Thơ phụ thuộc một cách cốt tử vào ngôn ngữ mà nó được viết ra. Mỗi đất nước, mỗi dân tộc đều có cách hình dung về thơ khác nhau. Bản thân mỗi một nhà thơ cũng có cách nhìn nhận riêng của mình về tính hiện đại trong thơ. Thơ không bao giờ là sự sáng tạo bầy đoàn. Tuyệt đối hóa một xu thế thơ như thể đó là duy nhất đúng bao giờ cũng là việc có hại cho sáng tác. Chúng ta không có nghĩa vụ coi bất cứ uy tín  ngoại lai nào là chuẩn mực. Mỗi dân tộc đều có bản sắc thơ riêng của mình... Mỗi nhà thơ cần có tiếng nói, dù nhỏ nhẹ, nhưng là riêng của cá nhân mình...
Tôi nghĩ là không thể dịch thơ “một trùng một” về ngữ nghĩa được. Có người đã từng khoe rằng họ dịch thơ nước ngoài sang tiếng Việt tới mức giữ được cả nhịp điệu, số lượng từ trong câu... Thật hoang tưởng, làm gì có chuyện ấy khi mỗi một ngôn ngữ có một kiểu hành văn khác nhau. Dịch thơ là phải đồng điệu tâm hồn với tác giả. Mình phải “lên đồng” cùng với tác giả. Dịch thơ không thể làm “cơ khí” được. Bởi thơ hay ở hồn vía. Nó hay ở cách tập hợp từ, liên kết từ, ở ngữ nghĩa của từng từ một, ở khoảng giữa các từ ấy.
Những người “tung” như vậy không hiểu về đối tượng mình viết. Ở Việt Namhiện nay đang có những nhà thơ với vốn ngoại ngữ tốt và từng có điều kiện tiếp xúc sâu với một số nền thơ nước ngoài nên dễ bị mang tiếng là chịu ảnh hưởng của những nền thơ đó. Tuy nhiên, sự thật cũng không hẳn như vậy, thậm chí là không phải như vậy. Ai biết thế nào là chất thơ Mỹ La tinh hay chất thơ Nga?! Cần phải thấy rằng, các nhà thơ ở Mỹ La tinh cũng như các nhà thơ Nga rất khác nhau. Mỗi một nhà thơ lớn là một thế giới, làm gì có cái gọi là chất Mỹ La tinh hay chất Nga chung chung ấy được? Hơn nữa, không một nhà thơ nào có thể quên được văn hoá của tổ tiên đến mức chịu ảnh hưởng của thơ nước ngoài. Mỗi một nhà thơ là một thế giới riêng thu nhỏ, nó khác nhau khủng khiếp...
4. Không có nền văn học hiện đại nào mà  chúng ta phải nhắm mắt đi theo cả. Bắt chước hay học đòi tân tiến là rất gây phản cảm. Làm thế chỉ là tuân theo một sự nô lệ kiểu mới, rất có hại cho đất nước. Đấy là chưa kể rằng, việc lăng xê một số tác giả thời thượng nước ngoài hiện nay là hoàn toàn vì mục đích thương mại. Trong quá khứ, chúng ta đã bị sai lầm khi thần tượng hoá một số người mà lẽ ra chỉ đáng để “tham khảo” chứ không phải để sao chép.
Thơ khi đã được dịch sang tiếng Việt là để cho người Việt đọc. Nếu như bảo đó là không phải Việt hoá thì rất buồn cười. Trong quá trình dịch, dịch giả càng giỏi thì giữ được đặc tính và bản sắc của nguyên bản ở mức độ cao nhưng thực ra, dịch sang tiếng Việt là đã Việt hoá rồi. Mỗi một từ của nước ngoài là một điển tích trong ngôn ngữ ấy, đưa sang thứ tiếng khác là khác đi vô số tình tiết rồi. Đặt vấn đề Việt hoá hay không là rất tầm phào. 

5. Hội đồng văn học dịch ở tổ chức nghề nghiệp của những người làm văn học chỉ có tác dụng nếu nó tạo nên được sự đánh giá đúng về chất lượng các bản dịch và những người dịch, giúp đỡ những người tâm huyết với công việc dịch văn học.  Còn không, đó chỉ là nơi ngồi cho những ai nghĩ rằng mình có quyền gì đó đối với các tác phẩm văn học dịch nhưng thực ra lại chỉ là “hữu danh vô thực” mà thôi... Phần lớn người dịch hiện nay đều làm theo sở thích của họ. Một số người dịch thơ thông qua đại sứ quán nhằm mục đích truyền bá văn hoá. Những tập thơ này, thường không đạt hiệu quả. Dịch thơ đôi khi còn nặng hơn làm thơ. Nó phải “diễn” tâm trạng người khác, vừa được giữ chất của mình. Dường như viết nhân vật đã khó, đóng nhân vật càng khó hơn. Hội đồng dịch cần phải đãi cát tìm vàng trong cái  mênh mông hỗn mang hiện nay.

6. Việc bản quyền làm nhiều người lo ngại. Phần lớn nhà thơ nước ngoài khi hay tin thơ của mình được dịch sang tiếng Việt sẽ không đòi tiền bản quyền. Vì bản quyền phải cân bằng với tỉ lệ thu nhập. Trong tình hình hiện nay, khó ai có thể thu lãi  nhờ việc bán thơ. Nếu như để in sách thì phải liên hệ với tác giả, còn dịch cho “vui” thì thôi. Không ai kết tội mình yêu thơ của mình. Tôi tin là họ sẽ hiểu và rất sung sướng khi người dịch thơ của mình hay. Đừng sợ công ước Berne mà chỉ sợ không dịch được thôi!
Nếu có điều kiện (đặc biệt dùng để tham khảo) thì nên in song ngữ là tốt nhất để người đọc biết được nguyên bản. Thực ra, dịch thơ là những phút ngẫu hứng trên chủ đề của nguyên bản. Ngay như, bản dịch Đợi anh về của nhà thơ Tố Hữu hay không phải là ông nhất nhất tuân thủ nguyên bản tiếng Nga vì ông dịch từ bản tiếng Pháp.

Nguồn: ANTG Cuối Tháng